Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Trang

Mua Bán Bất Động Sản Đồng Nai

Mua Bán Bất Động Sản Đồng Nai
Địa Chỉ: HSH01-12 Khu Đô Thị Long Hưng, Biên Hòa, Đồng Nai. Hỗ Trợ miễn phí: 0799 086 456 Hoặc 0376660689: Email: Dauvanlam0799086456@gmail.com

8 thg 12, 2023

Long mạch là gì? Tại sao lại tìm kiếm long mạch?


Từ xưa đến nay, không ít người tin rằng, nếu hài cốt tiền nhân được táng đúng long mạch thì con cháu sau này sẽ được giàu sang, phú quý. Thường đem lại năng lượng tốt và vượng khí về tài lộc hoặc tri thức cho người ở khu đất đó, hoặc con cháu của khu đất xây lăng mộ có long mạch ngự.

Về nhà ở thì theo quan niệm phong thủy, long mạch chính là vị trí tốt nhất của mảnh đất để xây nhà. Xây nhà tại vị trí long mạch, gia chủ sẽ gặp được rất nhiều phước lành, sự may mắn và thịnh vượng. Đây cũng chính là lý do rất nhiều người lựa chọn tìm kiếm đất long mạch với mong muốn được sống an bình, thịnh vượng.

Nói đến phong thủy thì người dân trung quốc, việt nam nào cũng biết. Phong thủy là một khoa học vô cùng thần bí và cổ xưa của đạo giáo. Có phong thủy dương trạch (nhà cửa), có phong thủy âm trạch (mồ mả). Ví dụ như xây nhà, chọn đất đầu cơ, bài trí đồ nội thất v.v… Những cái này là phong thủy dương trạch. Trong phong thủy học cho rằng những nhân tố này đều có thể ảnh hưởng đến vận mệnh của cả nhà, ảnh hưởng đến sức khỏe, bình an, tài vận… Của người nhà. Phong thủy âm trạch là phong thủy về chọn mồ mả hoặc đất đai an táng, ví dụ như trong nhà có người già qua đời, lựa chọn đất tốt để mai táng người chết, đây là phong thủy âm trạch, trong phong thủy học cho rằng những điều này có thể ảnh hưởng đến vận mệnh, quyền lực và sự giàu sang của con cháu đời sau.

Các triều đại trung quốc, việt nam từ xưa đến nay đều rất tin vào phong thủy, đặc biệt là các bậc đế vương. Trong phong thủy học cho rằng, mỗi một triều đại đều có long mạch của riêng mình, trên long mạch có một miếng đất phong thủy bảo địa vô cùng quan trọng, được gọi là ‘chân long huyệt’. Nếu như mộ phần của tổ tiên nhà nào vô tình được chôn ở trên chân long huyệt, vậy thì gia tộc đó sẽ chiếm hữu long mạch đó, con cháu đời sau của họ sẽ được làm hoàng đế, trở thành chân long thiên tử, thống trị thiên hạ. Vì vậy các đế vương rất xem trọng long mạch của gia tộc mình.










Một số câu chuyện lịch sử kể về long mạch


1: Cao Biền

Ly kỳ chuyện cao biền muốn chặt đứt long mạch, phá linh khí nước nam nhưng tự chuốc lấy thất bại ê chề

Theo chính sử, cao biền là một viên tướng tài nhà đường (trung quốc), làm quan cai trị việt nam vào thế kỷ ix, có công đánh thắng quân nam chiếu và xây thành đại la. Tuy nhiên, trong văn học viết và văn học dân gian, cao biền nổi danh là một phù thủy "Giỏi thuật số, thông địa lý, thường cưỡi diều giấy bay trên không trung để yểm các nơi thắng cảnh...", dùng "Thần quyền" Và "Tâm linh" Nhằm diệt ý chí giành độc lập của dân ta.




Cao biền là ai?

Cao biền (821-887) là người bột hải, sau ngụ ở u châu (bắc kinh ngày nay), xuất thân trong một gia đình dòng dõi võ quan. Sách "Đại việt sử ký toàn thư", tập 1 chép: "Cao biền tự là thiên lý, cháu của nam bình quận vương cao sùng văn dưới thời vua đường. Thuở nhỏ, cao biền học giỏi, chăm chú luyện kiếm bắn cung. Cao biền có tài bắn cung xuyên đôi ngỗng đang bay trên trời, được người đời coi là bậc kỳ tài.

Cao biền được cử làm tiết độ sứ giao châu (tên gọi của nước ta lúc bấy giờ) thay cho trương nhân bị mất chức vì không dẹp được trộm cướp ở khu vực này. Sau khi đã bình định xong giao châu, cao biền cho xây thành đại la để tập trung quyền lực về một mối".

Tuy theo nghiệp võ nhưng cao biền lại là người giỏi văn, thường bàn luận chuyện lý đạo với các nho sĩ. Ông là nhà thơ đường có nhiều bài thơ nổi tiếng. Trong thời kỳ bắc thuộc lần thứ iii, cao biền được đường hy tông lý huyền phong chức tĩnh hải quân tiết độ sứ, cai quản cả giao châu và quảng châu từ năm hàm thông thứ bảy (866) đến năm càn phù thứ hai (875).

Các chức quan của cao biền gắn với các cuộc chiến và ông đã cầm quân tham gia nhiều chiến trận như: Dẹp loạn người đảng hạng, chiến thắng quân nam chiếu xâm lược giao châu, đánh quân thục, dẹp loạn hoàng sào...

Cao biền trở thành danh tướng khi đánh thắng quân nam chiếu. Song sau đó ông đã thất bại trong việc đẩy lui cuộc nổi dậy của hoàng sào và bị thất sủng. Cuối đời, ông mắc sai lầm khi ngày càng trở nên rất tin tưởng vào phương sĩ lã dụng chi cùng 2 kì đảng, đến nỗi lã dụng chi nắm quyền kiểm soát quân trên thực tế, bất cứ ai dám lên tiếng chống lại lã dụng chi đều phải chết.

Tinh thông thuật trấn yểm nhưng cao biền vẫn thất thế ở an nam

Cao biền "Nổi danh" Ở đất việt với những trò ma thuật và trấn yểm, "Sinh nghề, tử nghiệp", rốt cuộc chính bản thân ông đã chết vì ma thuật, dù sử sách chính thống ghi rằng những trò này là do thuật sĩ lã dụng chi bày ra.

Trong "Lĩnh nam chích quái" Có truyện "Dấu trâu vàng ở huyện tiên du" (bắc ninh ngày nay) viết về cao biền "Giỏi thuật số, thông địa lý, thường cưỡi diều giấy bay trên không trung để yểm các nơi thắng cảnh…".

Truyện "Thần chính khí long đỗ" Kể khi đắp xong la thành thì biền gặp "Một dị nhân mặc áo màu sặc sỡ, trang sức trông kỳ lạ, cưỡi con rồng đỏ, lơ lửng trong mây khói, khí thế ngùn ngụt, bay lên lượn xuống" Tự xưng là long đỗ vương. Quá hoảng sợ, cao biền "Lập đàn và dùng nghìn cân sắt đúc tượng theo hình dạng thần nhân để làm bùa yểm". Nhưng khi vừa đọc thần chú bỗng trời đất mù mịt ngày đêm, mưa gió giật đùng đùng, tượng sắt nát vụn ra mà bay lên không. Biền sợ hãi, có ý muốn về phương bắc...

Truyện "Tản viên sơn thánh" Miêu tả chi tiết chuyện "Trấn yểm" Của cao biền: "Khi cao biền nhà đường ở an nam, muốn yểm những nơi linh địa bèn mổ bụng con gái chưa chồng mười bảy tuổi, vứt ruột đi, nhồi cỏ bấc vào bụng, mặc quần áo vào, rồi đặt ngồi trên ngai, tế bằng trâu bò, hễ thấy cử động thì vung kiếm mà chém đầu". Biền đem thuật này "Áp dụng" Hãm hại thần linh tản viên nhưng chỉ "Thấy vương cưỡi ngựa trắng ở trên mây, nhổ nước bọt mà bỏ đi". Biền than rằng: "Linh khí ở phương nam không thể lường được. Vượng khí đời nào hết được…". Như vậy thần tản viên rất khinh thường tài "Trấn yểm" Của biền...

Một dấu tích gắn với truyền thuyết về cao biền còn lại đến nay là cột đá (trên đỉnh núi dạm (bắc ninh) được cho là vật trấn yểm. Truyền thuyết kể, tin rằng vùng đất nam sơn quanh núi dạm là đất phát vương với thế rồng cuộn hổ ngồi, biền bèn dựng cột đá ấy để phá. Nhưng kết cấu và hình dáng cột đá nặng khoảng trên 50 tấn này thì có phần "Phản" Lại truyền thuyết: Đó là tác phẩm điêu khắc rồng đá theo phong cách thời lý. Nhưng giới nghiên cứu chưa đủ cứ liệu để khẳng định.

Lại có "Truyền thuyết mả cao biền" Kể sau khi trấn yểm đại la không thành, biền sợ linh khí nước nam mà đi mãi về phương nam, đến tận phú yên. Đến một làng nhỏ ven biển thấy có long mạch, biền bèn sinh sống tại đây rồi giúp dân nhiều việc, xem đất dựng nhà, xây mồ mả…Khi chết, biền được dân làng chôn cất tử tế. Ngày nay, ở huyện tuy an còn dấu tích mả cao biền nằm trên một ngọn đồi. Hình ảnh ấy được sinh động hóa trong câu ca dao: "Nhìn ra thấy mả cao biền/ nhìn vào thấp thoáng ma liên, chóp chài".

Sau khi cao biền chết 51 năm thì ngô quyền thắng quân nam hán, từ đó mở ra thời kỳ của quân dân đại việt luôn chiến thắng các cuộc xâm lược của bè lũ phong kiến phương bắc. Như vậy "Công lao" Trấn yểm của cao biền đều hóa thành vô ích và lại càng chứng minh được tinh thần tự chủ của văn hóa việt, tinh thần bảo vệ chủ quyền dân tộc của nước việt thật sự lớn lao.

Ly kỳ trấn yểm sông tô lịch cao biền


Hà nội có một con sông gắn liền với huyền sử linh thiêng và rất nhiều giai thoại ly kỳ, đó là sông tô lịch.

Năm 2001, đội thi công xây dựng đã phát hiện các cọc gỗ đóng dưới lòng sông xếp theo hình bát quái. Và từ đó đến nay, câu chuyện về trấn yểm long mạch sông tô lịch đã trở thành bí ẩn chưa có lời giải đáp.

Ngày hôm nay, chúng ta hãy cùng ngược dòng thời gian để tìm hiểu về phong thủy và những truyền thuyết xung quanh chủ đề này.

Mảnh đất kinh kỳ thăng long là nơi có hình thế “sông tụ – núi chầu”, cũng là một phần của long mạch á châu. Bắt đầu từ dãy núi himalaya, chạy vòng vèo như một con rồng lớn, mãi cho đến dãy hoàng liên sơn với đỉnh phanxipang, xuống đến việt trì rồi lặn xuống, sau đó lại tỏa ra và trồi lên ở ba vì.

Nhìn một cách tổng thể, địa mạch việt nam có cấu trúc âm dương hoàn chỉnh. Nối liền các đỉnh núi cao đi qua lai châu, sơn la, hòa bình, tới ba vì, qua cầu hàm rồng, dọc theo sông lam và núi hồng lĩnh đổ ra biển… Đây là nhánh bạch hổ mang hành khí âm. Tiếp theo, lại nối liền các đỉnh núi cao đi qua lai châu, sơn la, hòa bình, tới tam đảo, dọc theo sông tô lịch rồi vòng qua cổ loa, kéo dài tới sông thái bình, đi qua dãy yên tử và theo hướng đông bắc ra tới quảng ninh và chìm xuống ở vịnh hạ long… Đây chính là nhánh thanh long, mang hành khí dương. Hai nhánh thanh long và bạch hổ tạo thành thế “long chầu – hổ phục”, giúp thăng long trở thành nơi địa mạch trọng yếu của trời nam. Hơn 1000 năm trước, khi lý thái tổ dời kinh đô từ hoa lư ra thành đại la, nhà vua đã nhận xét: Thăng long là “nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước”.như vậy, sông tô lịch nằm trên nhánh thanh long, hơn nữa lại ở vị trí trọng yếu bảo vệ cho kinh thành. Long mạch này mang theo vượng khí cực thịnh, tạo thành thế đất rồng bay, xứng đáng là “đệ nhất đại huyết mạch”, là “đế vương quý địa”. Chính vì long mạch này mà năm xưa bậc thầy phong thủy cao biền đã phải nhiều lần khổ dụng tâm trí tìm cách trấn yểm. Cao biền sinh năm 821 là một tướng lĩnh dưới đời đường ý tông, từng làm tiết độ sứ của trị sở tĩnh hải quân. Biền không chỉ là một vị tướng tài, mà còn là bậc thầy về phong thủy. Tương truyền, cao biền từng dùng 8 vạn tháp đất nung để trấn yểm núi tản viên (ba vì), sau đó lại dùng rất nhiều sắt, đồng, vàng, và bạc để trấn yểm các vị trí trọng yếu dọc theo sông tô lịch.

Nhìn sao các thầy phong thủy lại muốn trấn yểm long mạch? Giới phong thủy học cho rằng: “thiên – địa – nhân hợp nhất”, vạn sự vạn vật trong trời đất đều có sinh mệnh, đều tuân theo các quy luật chung. Trái đất này của chúng ta cũng như vậy, cũng là một cơ thể sống chứ không phải một “cục đất” Vô tri vô giác. Nếu như thân thể người có hệ thống kinh, mạch, lạc và các huyệt vị, thì trái đất cũng có các địa mạch, địa huyệt. Trong đông y, châm mạch hoặc điểm huyệt có thể đả thông hoặc làm tê liệt một bộ phận nào đó của cơ thể, khiến bộ phận đó không thể cử động được. Phong thủy cũng tương tự như vậy, trấn yểm có thể làm phong bế hoặc ngăn chặn đường đi của nguyên khí trong long mạch. Phong thủy học cho rằng: Nguyên khí cũng giống như hệ thống kinh mạch trong đông y. Khí gắn với nước, nước giúp khí di chuyển, nước đi thì khí cũng đi, nước dừng thì khí cũng dừng. Sinh khí mạnh nhất là ở nơi giao hội của nước, nhất là nơi các dòng sông hội tụ. Vị trí được coi là nơi cao biền trấn yểm cũng là ngã ba sông – điểm giao hội của sông tô lịch và sông thiên phù.

Vậy, cao biền đã trấn yểm sông tô lịch như thế nào? Câu chuyện này không được ghi chép lại trong chính sử, nhưng lại được lưu truyền qua các truyền thuyết trong dân gian và các ghi chép trong huyền sử.

Sách “lĩnh nam chích quái” Có ghi chép đại ý rằng:

Năm hàm thông thứ 6, vua đường ý tông sai cao biền làm đô hộ tướng quân, đem binh đánh quân nam chiếu. Biền thắng trận trở về và được vua phong cho làm tiết độ sứ đất an nam.

Không lâu sau khi đặt chân lên đất an nam, cao biền đã có ý định xây thành đại la để phòng thủ. Cao biền xem xét hình thế đất, thấy các sông khác đều chảy theo về hướng đông nam, nhưng riêng có một dòng sông con từ lô giang lại chảy ngược theo hướng tây bắc. Có lần, cao biền cưỡi thuyền đi trên sông, bỗng thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, dung mạo dị kỳ, đang tắm ở giữa dòng. Biền hỏi họ tên, cụ già đáp: “ta họ tô, tên lịch”. Biền lại hỏi: “nhà cụ ở đâu?” Cụ già nói: “nhà ở trong sông này”. Dứt lời, cụ già đập tay xuống làm nước bắn tung mù mịt rồi biến mất. Biền biết là thần, bèn đặt tên sông là tô lịch.

Một buổi sớm khác, cao biền ra đứng ở bờ sông lô giang phía đông thành đại la, bỗng một trận gió lớn nổi lên, sóng nước cuồn cuộn, mây trời mù mịt, sau đó xuất hiện một dị nhân đứng trên mặt nước, thân cao hơn hai trượng, mình mặc áo vàng, đầu đội mũ tím, tay cầm hốt vàng rực rỡ một khoảng trời, chập chờn lên xuống trên khoảng không. Mặt trời cao ba con sào, khí mây hãy còn mù mịt. Cao biền thấy kinh hãi, có ý muốn yểm thần. Đêm hôm ấy nằm mộng, có thần nhân tới nói với biền rằng: “chớ yểm ta, ta là tinh ở long đỗ, đứng đầu các địa linh. Ông xây thành ở đây cho nên ta tới xem đó thôi, nào ta có sợ gì bùa phép?”. Biền kinh hãi, sáng hôm sau bèn lập đàn niệm chú, lấy kim đồng thiết phù để yểm. Đêm hôm ấy, sấm động ầm ầm, gió mưa dậm dật, đất trời u ám, thần tướng hò reo làm kinh thiên động địa, khiến kim đồng thiết phù bật ra khỏi đất, biến thành tro tàn bay trên không. Biền càng kinh hãi hơn, than rằng: “xứ này có thần linh dị, ta ở lâu tất chuốc lấy tai vạ”.

Thành đại la do cao biền xây dựng rất uy nghi bề thế, chu vi 3000 bộ, bên trong có hơn 400,000 gian nhà. Nhưng việc xây thành không được thuận lợi, đoạn gần sông tô lịch liên tục bị sụt lở và đã phải xây đi xây lại nhiều lần. Cao biền bèn dạo một vòng đến vị trí sụt lở để tìm hiểu nguyên do. Khi lấy phương vị bát quái ra đối chiếu, biền giật mình nhận ra vị trí từ tâm thành đến chỗ sụt lở chiếu thẳng về hướng núi tản viên (ba vì). Thì ra, nguyên nhân chính là do long mạch từ núi tản dẫn thẳng về tô lịch, chẳng những khó có thể xây thành, mà về sau đất này sẽ còn nhiều nhân tài kiệt xuất nổi lên xưng bá, xưng vương, sánh ngang với đường triều ở bắc quốc.

Là bậc thầy phong thủy, cao biền sớm nhận ra rằng khởi nguồn của long mạch nước nam là từ khu vực núi tản viên (ba vì), do đó tản viên còn được gọi là “tổ long sơn”. Long mạch chạy từ núi tản viên dọc theo hình thế đất đến sông tô lịch rồi vòng quanh thành đại la, do đó điểm trấn long huyệt nằm trong lòng sông tô lịch. Biền bèn dùng bát quái tiên thiên đồ lập trận trấn yểm, làm con rồng không cựa được và bị giam trong đất, như vậy đất sẽ cứng hơn và việc xây thành mới có thể thực hiện.

Cao biền không chỉ trấn yểm dưới lòng sông mà còn dùng “nhân chấn” Hai bên bờ làm âm binh. Tương truyền, cao biền đã lấy 100 hạt đỗ và 100 nén nhang, nhờ bà cụ bán hàng nước ở bờ sông mỗi ngày gieo một hạt đỗ và thắp một nén nhang để nuôi âm binh. Bà lão không hiểu nên vâng lời làm theo. Đến đêm thứ ba, bà lão nằm mơ thấy vị thánh mặt mũi phương phi, tay cầm gậy trúc đến gặp bà và nói: “con có biết con đang làm gì không?”.

Bà cụ ngơ ngác: “dạ thưa không”.

Vị thánh lại nói: “con làm như vậy là đã giúp nuôi âm binh cho cao biền. Muốn hóa giải, con hãy mang số hạt đỗ còn lại, đào một cái hố rồi đổ hết xuống đó, sau đó con đốt tất cả số nhang còn lại và cắm lên trên”.

Bà cụ làm theo lời dặn rồi thu xếp đồ đạc trốn đi. Ba ngày sau, cao biền ra bờ sông thì không còn thấy bà cụ nữa, nhìn ra nơi gieo đỗ thì thấy những hạt đỗ mọc lên cong queo, yếu ớt. Từ đó dân gian mới có câu: “lẩy bẩy như cao biền dậy non”.

Lại nói về chuyện trấn yểm dưới lòng sông. Có nhà phong thủy học cho rằng, cao biền đã dùng “lục quyết chấn” Gồm có: Độc chấn – tam chấn – tứ chấn – ngũ chấn – bát chấn – cửu chấn, và dùng “tứ yểm chấn”, bao gồm: Nhân chấn – kim chấn – thạch chấn – mộc chấn để trấn yểm sông tô lịch. Do đó trong trận đồ có các loại gỗ quý như gỗ sưa, gỗ vàng tâm, gỗ ngọc am, các loại đá quý như đá trắng, đá xanh, và các loại kim loại quý như vàng, bạc, đồng. Sau, biền lại nuôi âm binh dọc hai bên bờ sông và chôn theo các loại vật dụng sinh hoạt như bát, đĩa, kim tiền, đao, kiếm v.v. Cho âm binh sử dụng.

Đến năm 2001, nghĩa là hơn 1000 năm sau, đội thi công xây dựng tiến hành kè bờ và nạo vét đoạn sông tô lịch thuộc làng an phú, phường nghĩa đô, quận cầu giấy, hà nội – nơi xưa kia vốn là thôn đoài môn – cửa phía tây thành đại la. Tại đây, đội thi công đã phát hiện các cọc gỗ bố trí theo hình bát quái, lại có nhiều bộ hài cốt và các di vật cổ, trong đó có rất nhiều xương động vật (như voi, ngựa, trâu), hơn 10 cái liễn lớn nhỏ bằng sành, nhiều đồ gốm, đồ sắt, đồ dùng như bát đĩa, dao, liềm, kim khâu, một số mảnh gốm men ngọc đã bị vỡ và rất nhiều đồng tiền cổ hình tròn có lỗ vuông.

Sau khi nhổ cọc gỗ và an táng các bộ hài cốt lên nghĩa trang bất bạt đã xảy ra rất nhiều hiện tượng kỳ lạ. Ví dụ như máy xúc komatsu tự nhiên lao xuống sông, các công nhân xây dựng đang khỏe mạnh bỗng ngã lăn ra đất, chân tay co rúm, cứng đờ và mất ý thức trong nhiều giờ liền. Thân nhân gia đình của các công nhân trực tiếp ngụp lặn vớt hài cốt và nhổ cọc dưới lòng sông cũng gặp các tai nạn thảm khốc. Sự việc lên đến đỉnh cao khi có tới 43 công nhân đã bỏ không làm việc tại công trường nữa. Nhiều người cho rằng tai nạn xảy ra chỉ là ngẫu nhiên, những người không tin vào phong thủy còn nói rằng trấn yểm chỉ là điều “nhảm nhí”, nhưng cũng không ít người than rằng đó là do phạm vào trận đồ trấn yểm của cao biền năm xưa.

Sự việc đã xảy ra hơn 1000 năm rồi, người xưa đã khuất, giờ chỉ còn cát bụi thời gian. Sự thật đằng sau câu chuyện trấn yểm ly kỳ ấy là gì? Có thực là trận đồ của cao biền hay không? Vả chăng nếu có, thì mục đích thực sự để làm gì? Lời giải cho hết thảy những câu hỏi này, kẻ hậu thế chúng ta không thể biết, chỉ có thể chắp nối từ những thuyết lưu truyền trong dân gian để mò mẫm và suy đoán mà thôi.

Cho dù bạn có tin phép thuật hay các trận đồ phong thủy hay không, thì cũng không thể không thừa nhận rằng: Trong lịch sử quả thật có những bậc cao nhân trên có thể hô mưa gọi gió, dưới có thể yểm mạch tầm long, lợi dụng thuật pháp mà làm hưng vượng hay suy bại một quốc gia. Không chỉ riêng cao biền mà những bậc cao nhân của nước việt như thầy địa lý tả ao, thiền sư từ đạo hạnh, hòa thượng nguyễn minh không, v.v. Đều là những nhân vật có thật trong lịch sử, huyền tích về họ vẫn được ghi chép trong các thư tịch cổ và được lưu truyền qua các thời đại.

Đến đây có thể sẽ có người thắc mắc: Nếu trấn yểm có thể làm quốc gia hưng thịnh hay suy bại, vậy thì có thể dùng phong thủy để trị quốc được không? Và nếu phong thủy quyền năng như thế, thì người tài đức đâu còn đất dụng võ, cũng đâu cần tu dưỡng hay học tập làm chi?

Kỳ thực, các bậc cao nhân phong thủy đều hiểu rằng: Bùa phép cũng giống như con dao hai lưỡi, lạm dụng nó sẽ làm hại chính bản thân mình. Hậu thế đều biết cao biền là một bậc phong thủy đại tài, một tay có thể dời non lấp bể, sai khiến quỷ thần. Nhưng ít ai biết rằng, những năm cuối đời của ông lại vô cùng bi thảm, thuật pháp phong thủy cũng không thể giúp ông thay đổi mệnh trời, cải biến hậu vận của chính mình.

Trong cuốn sách bí truyền của “thánh địa lý” Tả ao có lời nhắn nhủ hậu thế rằng: “tiên là tích đức, hậu là tầm long”. Các trận pháp đồ, dẫu sao, cũng chỉ là thế gian tiểu đạo, sao có thể sánh với đại pháp vô biên? Phật gia cũng vậy, mà đạo gia cũng vậy, các giác giả hạ thế truyền pháp không hề dạy các phép lập trận, yểm bùa, mà chỉ dạy con người hướng thiện, tu tâm, chỉ một mực dựa vào tu tâm tính mà có thể công thành viên mãn, trở thành phật, đạo, thần, thành bậc giác giả chí cao vô thượng. Ấy là bởi, sức mạnh lớn nhất của con người là ở đức, và phong thủy lớn nhất của đời người là chính mình. Phúc phận của một người cũng vậy, mà phúc phận của cả một dân tộc cũng vậy, không phải đến từ dăm ba trận đồ hay các phép thuật phong thủy, mà chính là từ đức mà nên.

2: Tả ao

- Tả ao được coi là ông tổ của nghề địa lý phong thủy việt nam. Xuất thân từ một cậu bé nghèo trở thành nhà phong thủy kiệt xuất, tả ao đã dùng tài năng của mình giúp đỡ nhiều miền quê, dòng họ đất việt phát đạt, hiển vinh. Từ mỗi vùng đất ông đi qua đều viết nên huyền thoại, những câu chuyện nhuốm màu liêu trai mà đến nay dân gian vẫn lưu truyền.






Nhân duyên đến với phong thủy

Người đời xưa truyền lại:

Tả ao phong thủy nhất trên đời

Họa phúc cầm cân định chẳng sai.

Mắt thánh trông xuyên ba thước đất,

Tay thần xoay chuyển bốn phương trời.

Chân đi long hổ luồn qua gót,

Miệng gọi trâu dê ứng trả lời.

Ai muốn cầu sao cho được vậy

Ấy ai địa lý được như ngài.

Tả ao không phải tên thật của bậc thầy địa lý xứ nam ta, mà là tên làng quê nơi ông sinh ra, được ông lấy làm tên hiệu và gắn với các tác phẩm của mình. Đó là làng tả ao, phủ đức quang, trấn nghệ an, tức huyện nghi xuân, tỉnh hà tĩnh ngày nay. Tên thật của ông thì chưa một sử sách nào khẳng định chắc chắn.

Bách khoa toàn thư việt nam ghi “tả ao”, sách “lịch triều hiến chương loại chí” Của phan huy chú ghi tên ông là “hoàng chiêm” Hay “hoàng chỉ”. Còn trong dân gian, xuất phát từ người cùng quê với ông, lưu truyền tên gọi thật là vũ đức huyền. Cũng có nguồn nói rằng ông có tên là nguyễn đức huyền.

Năm sinh của ông cũng không hề rõ ràng, có tài liệu cho rằng tả ao sinh vào khoảng năm nhâm tuất (1442), sống thời lê sơ, tức là khoảng những năm 1442-1509). Tuy nhiên, có tài liệu lại cho rằng, tả ao sinh sống trong khoảng đời vua lê hy tông (1676-1704).

Dù cho tên tuổi của ông chưa hề có sự thống nhất nhưng tài năng và cuộc đời của ông xưa nay vẫn được lưu truyền trong dân gian luôn là độc bản. Thuở nhỏ, gia cảnh nghèo khó, ông mồ côi cha, mẹ lại mắc bệnh mù lòa. Vì muốn tìm cách chữa bệnh cho mẹ ông theo một khách buôn sang tàu để lấy thuốc chữa bệnh cho thân mẫu. Thầy thuốc đất tàu thấy tả ao là một người có hiếu nên hết lòng dạy nghề lang dược.

Khi đó, nơi đây cũng có một thầy địa lý bị mù loà mời thầy lang đến chữa, do già yếu nên ông thầy sai tả ao đi chữa thay. Khi tả ao chữa khỏi mù loà, ông thầy địa lý nhìn thấy tả ao nghĩ bụng: “người này có thể truyền nghề cho được đây”.

Ông thầy địa lý nhận thấy tố chất thông minh, hiếu học của tả ao, để trả ơn chữa bệnh nên thầy địa lý nọ đã truyền hết nghề. Không phụ lòng thầy chỉ hơn một năm sau tả ao đã tinh thông những gì được truyền dạy.

Trước ngày về, để thử tay nghề của học trò, thầy địa lý bèn đổ cát thành hình núi sông và vùi 100 đồng tiền ở các huyệt đạo, rồi bảo tả ao tìm thấy huyệt thì xuyên kim xuống. Tả ao đã cắm được 99 kim đúng lỗ đồng tiền (chính huyệt), chỉ sai có một. Xong ông thầy nói: “nghề của ta đã sang nước nam mất rồi”, rồi cho tả ao cái tróc long và thần chú. Tả ao về nước nam chữa khỏi bệnh cho thân mẫu.

Khi trở về quê hương, đức huyền làm nghề bốc thuốc chữa bệnh cho người dân, ít khi sử dụng đến khoa địa lý. Chỉ khi nào cần thiết ông mới ra tay xem thế đất giùm mọi người. Tuy vậy, danh tiếng xem địa lý, phong thủy của ông lại nổi hơn nghề thầy thuốc.

Hành thiện giúp đời

Ngày nay ở việt nam vẫn còn nhiều truyền thuyết, giai thoại được sách vở ghi lại, truyền miệng trong dân gian như việc tả ao tìm nơi đất tốt để đặt đình chùa, đền miếu, mồ mả, nhà cửa; giúp dân nghèo, trị kẻ gian ác… Một trong những câu chuyện ấy là huyền thoại giếng mắt cá của làng hành thiện ở huyện xuân trường, tỉnh nam định.

Trải qua bao đời, người dân làng hành thiện giờ đây vẫn kể lại, một lần khi đi tới phủ xuân trường, ngài tả ao phải đi đò sang sông, đến gần bến thì phải lội xuống bùn mới lên được bờ. Lúc ấy một người khách người làng hành thiện đi cùng chuyến đò đã hào hiệp cõng ông qua quãng lầy lội.

Khi tới làng hành thiện ông lại được người dân khoản đãi nồng hậu. Trước tấm lòng mến khách, hào phóng và trượng nghĩa của người dân nơi đây, tả ao mới ngỏ ý xem xét thế đất cho họ.

Sau khi ngắm hướng, tả ao tới chỗ mỏm đất trước cửa đền thần hoàng, nói rằng vì con cá còn thiếu mắt, nên cần đào giếng làm mắt cá. Sau khi đào xong, ông dặn dò dân làng, cần phải giữ sạch sẽ vì giếng nước này rất thiêng, nếu được vậy thì trong làng ắt có người làm thầy, làm quan, giàu có nhất vùng. Quả nhiên lời tả ao ứng nghiệm, từ ngày đào giếng, hành thiện ngày càng thịnh phát, nổi tiếng là ngôi làng nho gia, nam thì học hành thi cử đỗ đạt, nữ thì dệt lụa ươm tơ.

Theo hội trưởng hội khuyến học làng hành thiện, ông nguyễn đăng hùng tổng kết, thời phong kiến hành thiện có 419 người đỗ đạt, trong đó 7 người đỗ đại khoa với 3 tiến sĩ, 4 phó bảng, 97 cử nhân, 315 tú tài.

Thời nay, hành thiện có 45 người là giáo sư và phó giáo sư; 166 người là tiến sĩ, thạc sĩ; hơn 1.500 người tốt nghiệp đại học. Một số yếu nhân như cố tổng bí thư trường chinh cũng được sinh ra ở vùng đất địa linh này. “đậu phụ thuỷ nhai, tú tài hành thiện” Chính là nói đến điều này.

Theo ts nguyễn hoàng điệp - giám đốc trung tâm dịch thuật, dịch vụ văn hóa và khoa học công nghệ thì “trấn yểm phong thủy được xem là một môn khoa học chứ không hẳn là tâm linh. Trong đó, những thầy địa lý phong thủy ngoài vốn kiến thức am tường về kiến trúc, hướng gió, mạch nước thì họ còn biết cách thu hút khí tốt, năng lượng tốt phục vụ tốt hơn cho đời sống con người”.

“tiên là tích đức,

Sau là tìm long”

Trong phần mở đầu của cuốn sách bí truyền “dã đàm tả ao”, điều ngài tả ao nhắn nhủ hậu nhân không phải là tìm long mạch ra sao, trấn yểm thế nào, mà là tích đức, tu thân:

“đạo cao, đức trọng, chưng thân.

Hổ long liên phục, quỷ thần liên kinh.

Đức, nhân vốn ở cả mình.

Tiên là tích đức, hậu là tầm long”.

Dù rằng trong suốt cuộc đời mình, ông đã giúp nhiều vùng đất được hưng thịnh, nhiều gia đình phát lộc, nhiều hiền nhân phát tài, nhưng chính bản thân ông lại không thể thay đổi được mệnh trời.

Trong cuốn “nam hải dị nhân” Có ghi lại, khi ngài tả ao học địa lý thành tài, trước khi chia tay thầy để trở về cố hương, ông đã được thầy căn dặn: “về đến nước nam, nhớ đừng lên núi hồng lĩnh”. Nhưng một lần qua hồng lĩnh, ông tò mò bèn trèo lên xem thử, thì ra đó là huyệt “cửu long tranh châu”, chính là huyệt đế vương vô cùng quý hiếm. Ông bèn đưa mộ cha về an táng trên núi.

Không lâu sau, vợ ông sinh được một người con trai. Ở phương bắc cùng lúc đó các thầy thiên văn phát hiện thấy có nhiều vì tinh tú cùng chầu về nước nam. Nhà minh thấy vậy, lập tức ra lệnh cho các thầy địa lý phải sang tìm cách mà phá đi, nếu không sẽ tru di tam tộc. Thầy dạy của tả ao biết rằng chỉ có học trò mình mới làm được điều này, bèn sai con trai sang “đoái công chuộc tội”.

Con trai ông thầy sau khi điều tra kỹ lưỡng đã yểm phá huyệt đạo, rồi bắt con trai cả của tả ao mang về bắc quốc, khi ông nhận ra thì đã quá muộn màng.

Đến lúc thân mẫu qua đời, tả ao đã lặn lội tìm thế đất hàm rồng ở mãi ngoài hải đảo để an táng mẹ. Đến ngày giờ đã định thì bỗng nhiên sóng to, gió lớn nổi lên, đến khi trời yên bể lặng ở đó nổi lên một bãi bồi. Tả ao biết ý trời không thuận, bèn than rằng: “500 năm rồng mới há miệng trong một lần một khắc, trời đã không cho thì đúng là số rồi”.

Lại nói, một lần đi qua làng thiên mỗ, ngài tả ao thấy có ngôi đất to, biết là huyệt quý, nên định táng hộ cho nhà họ trần. Nhưng không hiểu sao tróc long của ông không đặt được xuống đất, hễ đặt là đổ, ông bèn gọi thổ thần lên hỏi.

Thổ thần trả lời rằng: “đất này phát ba đời quốc sư đại vương, con cháu công hầu không bao giờ hết. Thiên thượng đã để dành cho nhà họ nguyễn, còn nhà họ trần kia ít phúc, không xứng để được đất này, nếu ông cưỡng mệnh trời thì tất có tai vạ. Vả lại ông đi khắp thiên hạ, làm phúc cho người ta đã nhiều, mà không được ngôi nào để táng cho cha mẹ, ông nên nghĩ thế thì biết”.

Tả ao lĩnh chỉ ý thần, hiểu rằng phúc là từ đức mà ra, tài lộc nhiều hay ít cũng là do đức dày hay mỏng. Vậy mới nói “phong thuỷ chỉ dưỡng người tích thiện”, thầy địa lý dẫu cao tay đến đâu cũng không thể dựa vào phong thuỷ để thay đổi mệnh trời. Gia cảnh ông bần hàn, con cháu khó khăn tất cả đều có nguyên do.

Những năm cuối đời tả ao chu du khắp thiên hạ, không màng danh lợi, không ham phú quý, công danh, mà mượn phong thuỷ để giúp người thiện đức nhưng không truyền nghề cho con cháu. Gia tài nhà phong thủy tả ao để lại chỉ vỏn vẹn 2 cuốn sách nhỏ là “địa lý tả ao (địa đạo diễn ca)” Gồm 120 câu và “dã đàm tả ao tầm long gia truyền”.

Nhiều sách khác cũng được xem là của cụ nhưng thực ra đều là dị bản, chủ yếu là từ 2 cuốn sách trên của cụ rồi dẫn giải thêm bớt. Ngày nay tại huyện nghi xuân, hà tĩnh vẫn còn đền thờ tả ao và giếng tả ao.

Một số câu chuyện về Tả Ao.

Tả ao hay tả ao tiên sinh, là nhân vật làm nghề địa lý phong thuỷ nổi tiếng ở việt nam. Ông được cho là tác giả của một số cuốn sách hán nôm cổ truyền bá thuật phong thủy của việt nam. Trong dân gian tương truyền nhiều giai thoại cổ về hành trạng thuật phong thủy của ông ở các làng xã việt nam thời xưa. Tả ao có quê ở làng tả ao, phủ đức quang, trấn nghệ an (nay thuộc xã xuân giang, huyện nghi xuân, tỉnh hà tĩnh).

Tác giả: Gs.ts cao ngọc lân
(đại học quốc tế thành công đài loan)

2.1 tả ao để mộ tổ cho nhà trạng lợn dương đình chung

vào thời nhà lê, họ dương ở làng dừa thuộc tỉnh hà nam là một quí tộc có nhiều người làm quan to trong triều. Đến đời ông dương đình lương thì sa sút, con cháu không nối được nghiệp cha ông, phải làm nghề bán thịt để sinh nhai.

Hai vợ chồng ông tuy sống bằng nghề giết heo, giết bò, nhưng bản tính thật thà, phúc đức, có tiền vẫn bố thí cho những người khó ở chung quanh và thờ trời phật rất mực, chứ không ác nghiệt như phần đông bạn đồng nghiệp lúc bấy giờ.
Một hôm, lương ông đi lễ ở cái miếu đầu làng về thì gặp một cụ già vai đeo khăn gói, tay chống gậy, hỏi thăm tìm nhà trọ.
Lương ông đáp:
- thưa cụ, ở đây không có quán trọ nào hết. Bây giờ trời sắp tối rồi, cụ mà đi nữa thì sẽ lỡ đường, âu là mời cụ về nhà tôi nghỉ. Tôi không có tiền nhưng đủ cơm nước đãi cụ mươi ngày. Nếu cụ có lòng yêu chúng tôi muốn ở lại đây chơi ít ngày.
Ông khách mừng rỡ.
- nếu được như thế thì còn gì hay bằng.
Lương ông đưa ông khách về nhà, tiếp đãi rất chân thành. Cơm nước xong, ông khách hỏi chủ nhà làm gì. Lương ông cứ thực tình mà đáp:
- không dám dấu cụ, tổ tiên chúng tôi xưa làm quan to tại triều, nhưng đến chúng tôi tài hèn sức kém nên đành phải bán thịt để sinh nhai.
Hai người trò chuyện một đêm, tâm đầu ý hợp. Chủ nhất định lưu khách lại vài hôm, không ngờ ông khách lì lợm ở lại luôn ba tháng, ngày nào cũng hai bữa rượu rồi chống gậy đi chơi la cà hết gò này sang đống nọ, hết ruộng nọ lại đến ao kia.
Thì hóa ra ông nọ là một thầy địa lý đang đi xem đất, mà ông ta không ai khác hơn là ông thánh địa lý tả ao. Thấy lương ông là một người phúc hậu, hiền lành, tả ao muốn đáp ơn, quyết định ở lại liền ba tháng chính là để tìm cho lương ông một ngôi đất quý.
Tả ao hỏi lương ông:
- ông bà đãi tôi thành tâm quá, tôi cảm tạ lòng ông bà hết sức. Nay tôi tìm được một ngôi đất quý cho ông bà, vậy xin hỏi ông bà muốn gì?
Lương ông đáp:
- bẩm cụ, tôi chẳng muốn gì cả, chỉ mong mỏi có một điều là sinh được một đứa con trai có học hơn tôi để nối nghiệp ông cha cho khỏi mang tai mang tiếng.
Tả ao gật đầu:
- tưởng gì, chớ nếu chỉ có thế thì dễ lắm. Ngôi đất tôi chọn cho ông phát trạng mà lại là trạng không phải học. Vậy ông sửa soạn đi để tôi đặt mả tổ cho, kẻo tôi có việc sắp sửa phải đi xa rồi.
Lương ông bèn nhờ ông tả ao đặt lại ngôi mộ của thân phụ ông. Táng xong được vài tháng thì lương ông làm ăn thịnh vượng hơn trước. Thấy trời thương như thế, vợ chồng lương ông lại càng cố tu nhân tích đức. Được gần một năm thì lương bà có thai. Trong khi lương bà có thai, lương ông hàng ngày thấy một hiện tượng lạ.
Nguyên từ nhà lương ông ra chợ thì phải đi qua một cái gò gọi là gò thần đồng. Lần nào đi chợ về lương ông cũng thấy trong lùm cây có tiếng trẻ con kêu the thé:
- thầy ơi, lần sau đi chợ thầy nhớ mua quà cho con nhé.
Lương ông thoạt đầu không tin, nhưng sau thấy đứa trẻ cứ nói the thé ra như thế ông phải đáp:
- ờ để lần sau thầy mua quà cho con.
Lương ông không muốn nói dối, hôm sau mua quà thật. Ông gọi:
- đứa nào đòi quà thì ra đây mà lấy.
Tiếng đứa trẻ nói vọng ra:
- thầy cứ để đấy, con ra lấy ngay bây giờ.
Lương ông để ý thì đi một quãng, quay lại xem, gói quà biến từ lúc nào không rõ. Từ đó lần nào đi chợ về, lương ông cũng mua quà cho đứa trẻ. Ông biết đây không phải là người mà là ma. Một lần đi qua để quà xong ông hỏi: “con có thể về làm con của ta được không?” Đứa bé nói: “thế con ở với thầy được bao lâu?” Ông nói: “thầy mua cho con bao nhiêu lần quà thì con ở với thầy bấy nhiêu năm”. Ông nhẩm tính mình đã mua được bảy mươi hai lần. Khi về đến nhà thì lương bà chuyển bụng sanh được một con trai. Đứa con ấy là trạng lợn sau này vậy.
Lương ông đặt tên cho con trai là chung nhi. Tục truyền vua lê thánh tôn cũng ra đời cùng ngày với chung nhi. Cả trạng ăn, trạng vật cũng sinh năm ấy. Sau này cả ba người này cứu vua lê thánh tông thoát nạn lê nghi dân cướp ngôi. Cả ba ông giúp vua lê thánh tôn đánh giặc chiêm thành ở phía nam, đi sứ ngoại giao với triều minh ở phương bắc, làm cho lê thánh tông trở thành ông vua nổi tiếng trong lịch sử.

2. 2 cứu vua nhờ mộ kết phát

một ngày nọ, tả ao đi ngao du sơn thủy, tuổi tuy đã già nhưng dáng người vẫn quắc thước khoẻ mạnh. Khi ông đi đến một làng quê nọ, trời nắng nóng nên ghé vào ngồi nghỉ mát dưới gốc cây đa bên làng, ông nhìn thấy một anh nông dân đang miệt mài cày ruộng, đến khi mặt trời đứng bóng mới chịu tháo cày cũng vào gốc đa ngồi mở cơm nắm ra ăn.

Thấy một ông lão cùng ngồi ở đó nhưng không ăn uống gì cả, anh ta mới lên tiếng hỏi:
- xế trưa rồi ông không dùng cơm sao, hay là ông không sẵn mang theo, thôi cùng nắm cơm này ăn với cháu cho vui.
Anh nông dân vừa giở cơm, vừa mau mắn mời ông lão:
- cháu mời ông dùng cơm…
Thấy thái độ anh nông dân dễ mến, tả ao không khách khí, bèn vui vẻ ngồi lại cùng ăn. Bốn năm ngày như vậy, anh nông dân vẫn một lòng kính trọng tả ao, mời cơm và ông cũng không lần nào từ chối. Đến bữa cuối cùng, bỗng ông nói với anh nông dân:
- chắc anh vẫn không biết ta là ai? Ta chẳng giấu gì anh, ta chính là thầy địa lý tả ao đây!
Anh nông dân nghe danh tả ao đã lâu, nay có dịp diện kiến nên vừa mừng vừa hốt hoảng, liền quỳ lạy xin ông tha lỗi. Tả ao đỡ anh nông dân đứng dậy nói tiếp:
- ta xem anh là người có đức nên có ý giúp anh đặt một ngôi mộ sau này sẽ phát phúc, phát tài, cho anh nở mặt với thiên hạ…
Anh nông dân trả lời:
- ông dạy quá lời, nhà cháu mấy đời nay đều là nông dân chân lấm tay bùn, bần hàn, đi cày thuê cuốc mướn kiếm cơm qua ngày, mong gì nở mày nở mặt với ai?
- anh cứ yên tâm. Ta nói sẽ giúp anh được giàu sang phú quiý trong vòng 100 ngày thôi. Nào anh hãy dẫn ta ra nơi mộ của cha mẹ của anh đi, ta xem thế nào sẽ sửa cho.
Anh nông dân mừng rỡ bèn nghe theo lời tả ao, dẫn ông đi ra mộ của cha anh ta. Tả ao xem xong mới truyền:
- mộ đặt nơi thế đất không tốt, suốt đời sẽ bần hàn cơ cực. Phải đào lên cải táng, di dời qua nơi đất khác mà thôi.
Nói rồi bảo anh nông dân đào mộ lên, xếp xương cốt vào một chiếc hủ đất đem đi chôn ở một huyệt đất mà tả ao đã chọn sẵn. Xong đâu đấy, tả ao căn dặn:
- anh nhớ không cho ai biết chuyện này. Một trăm ngày nữa, vào ngày mùi tháng ngọ, đúng giờ tý anh phải có mặt ở kinh đô, đứng ở hướng đông. Hễ gặp một người đàn ông mặc áo trắng, đi hài xanh, từ trong thành chạy ra với bộ mặt hốt hoảng, thì anh cứ chạy lại bảo: “con xin cứu ngài!”, rồi cõng thẳng về giấu trong nhà, ngày ngày lo cơm nước cho tử tế. Anh cứ thế mà làm, đừng suy nghĩ gì hết.
Nói xong, tả ao từ biệt anh nông dân mà đi thẳng, về sau anh ta có đi tìm nhưng chẳng biết ông đi về đâu.
Đúng như lời dặn của tả ao, đúng ngày giờ anh nông dân ra kinh đô đứng đợi ở cửa đông. Bỗng nghe có náo động từ trong thành vọng ra nào tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng quân reo hò, tiếng người gào thét, rồi lửa bốc cháy đỏ rực một góc trời. Quả nhiên, một người đàn ông dáng thư sinh mặc áo trắng, đi hài xanh, hớt hải một mình chạy qua gần chỗ anh nông dân đang đứng. Anh ta chỉ đợi có thế bèn chạy đến bên nói to:
- thưa ngài, con xin cứu ngài!
Nói đoạn ghé vai cõng người ấy chạy một mạch về giấu trong nhà. Người ấy dáng chừng sợ hãi, suốt ngày im lặng nghe ngóng động tĩnh. Anh nông dân cũng chẳng hỏi thân thế của người đàn ông ấy đang lo sợ đến quên ăn mất ngủ.
Vài ngày sau bỗng có loa truyền rằng, ai đang giữ vua ở đâu thì báo cho quan quân kịp đưa vua về kinh. Lúc ấy ông khách mới nói cho anh nông dân biết mình chính là vua, mấy ngày trước đây bị bọn gian thần định soán ngôi. Nhà vua sai anh ta đi báo cho quan quân biết nơi vua đang ở ẩn. Khi quan quân đến rước vua, vua cho phép cả anh nông dân cùng đi theo mình về kinh thành.
Tại kinh đô vua thiết triều, trấn an trăm họ và phong cho vị ân nhân là anh nông dân được làm quan đến chức nhị phẩm, cùng vàng bạc lụa là nhiều vô số kể. Như vậy, ngôi mộ mà tả ao đặt cho người cha anh nông dân, kết phát y như lời ông nói khi trước, chỉ trong vòng 100 ngày.

2.3. Tả ao giúp làm quan

quanh năm tả ao thường đi đây đó khắp trong nước để tìm những ngôi đất quiý. Một lần đi qua tỉnh nọ thấy có một ngôi đất rất đẹp, ông bèn buột miệng khen:

- kiểu đất này mà đặt mộ thì chắc chỉ sáu tháng là phát làm quan. Nhà ai có phúc thì được hưởng thôi.
Sau đó ông đi về hướng làng, gặp một người đàn ông trung niên đi tới. Nhìn thấy nét mặt ông ta tuy phúc đức nhưng tướng lại khắc khổ quá. Tả ao mới hỏi:
- ông có muốn ra làm quan không?
Người đàn ông đáp:
- lạy ông, nhà tôi bất hạnh ba đời, học hành chỉ đủ đọc sách, muốn làm quan không xong, thi cử đợt nào cũng thi rớt, nên nay vẫn sống kham khổ làm ruộng kiếm sống thôi. Được làm quan thì phúc ba đời để lại.
Tả ao nghĩ bụng ông ta không nói sai. Rồi ngắm nhìn ông ta một lúc bèn nói:
- thôi được, tôi sẽ giúp ông̣ đặt lại ngôi mộ tổ. Ông về lo sẵn 300 quan tiền.
Người đàn ông mừng lắm vội mời tả ao theo mình về nhà, gọi người thân ra đào ngôi mộ tổ, bốc xương cốt cho vào cái tiểu sành đem đến chôn sâu xuống huyệt đất do tả ao vừa thấy ban sáng mà táng lại. Xong việc, ông ta giữ lời, trao cho tả ao đủ 300 quan tiền, nhưng tả ao chỉ lấy có ba quan, còn lại ông bảo đem phát hết cho người nghèo khó trong làng.
Gần sáu tháng sau, vào một đêm không trăng, cả nhà ông ta đang quây quần dưới ngọn đèn bỗng có tiếng người gõ cửa. Người nhà ông ta ra mở cửa, thấy trước mặt là một ông tướng uy nghi lẫm liệt nhưng có vẻ đang thất cơ lỡ vận. Khách thật thà nói mình đang lỡ độ đường, xin gia đình cho ăn uống. Ông ta vốn hiếu khách vội sai người nhà nấu cơm đãi khách rất mực nồng hậu.
Cơm nước vừa xong, ông khách mới nói:
- thưa ông̣, tôi là tội phạm đang bị nhà chúa lùng bắt. Đằng nào tôi cũng không thoát khỏi. Xin ông̣ mang dây thừng trói tôi lại rồi đem nộp cho chúa trịnh mà lĩnh thưởng. Như vậy dù tôi có bị hại, tôi cũng giúp ích được cho gia đình ông̣, còn hơn là uổng thân vô ích.
Cả nhà kinh ngạc sững sờ trước những lời nói của người khách lạ. Không ai nỡ hành động, nhưng ông khách cứ giục mãi, bất đắc dĩ họ phải làm theo.
Chúa trịnh được ông ta giao nộp viên tướng thất thế, hết sức khen ngợi, bèn phong cho làm chức tri huyện để trọng thưởng. Vị khách đó chính là mạc kính đô, tướng nhà mạc đang bị thất thế. Vì cảm tấm lòng tốt của người đàn ông mà kính đô đáp lại ông bằng một hành động lạ lùng có một không hai trong thiên hạ.
Đúng như lời tiên đoán của tả ao không sai. Chỉ trong sáu tháng là được làm quan.

2.4. Tả ao giúp làm thợ

một hôm tả ao đang đi đến vùng đất nọ. Thấy ngôi đình làng ở đây đặt hướng bị thất cách, ông đứng ngắm mãi rồi đến gần để xem cho rõ.

Giữa lúc trong đình đang làm lễ kỳ yên, các vị chức sắc trong làng đang chuẩn bị bữa tiệc chiều. Một người biết mặt tả ao liền chạy ra khẩn khoản mời ông vào trong đình. Các vị chức sắc được gặp thầy địa lý trứ danh nên mừng lắm, ông tiên chỉ trong làng nói:
- hôm nay là ngày tế kỳ yên trong làng, may được gặp thầy thật là phúc cho cả làng này lắm. Nhân thể nay mai làng cho sửa lại ngôi đình, xin cụ coi cho cái hướng nào tốt, làm sao cho làng chúng tôi phát khoa bảng rầm rầm, nhằm đè đầu cưỡi cổ thiên hạ một phen cho họ biết tay. Lâu nay cả làng chưa ai thi đậu cả.
Một ông hăng hái nói thêm:
- cụ tiên chỉ nói phải đấy thưa cụ. Các làng bên, không làng nào không có tiến sĩ, cử nhân, xoàng thì cũng phó bảng, chót chét cũng tú tài. Riêng làng này chắc các cụ trước đặt hướng đình có nhầm nhỡ gì đây nên bao nhiêu năm trời vẫn suôn cành, không hưởng được trái lộc nào. Cụ đã đến đây xin ra tay giúp chúng tôi được đè đầu cưỡi cổ thiên hạ một phen cho hả dạ.
Tả ao chỉ cười nói:
- tưởng gì chứ nếu các cụ chỉ ước có vậy thì tôi xin ra tay, không dám nề hà gì nhưng chỉ xin 3000 quan tiền để lấy công thôi.
Các vị chức sắc nghe nói đến tiền công đến 3000 quan, thì lắc đầu le lưỡi, có người than thở:
- làng này vì không đỗ đạt, nên không “tơ hào” Được gì nên còn nghèo túng, chỉ mong sau này đè đầu cưỡi cổ được thiên hạ, nói gì 3000 đến 5000 quan chúng tôi cũng lo cho cụ được, mong cụ xem lại mà bớt cho.
Tả ao nghĩ thầm trong bụng, ta lấy tiền giúp người nghèo chứ có phải dùng riêng đâu. Bọn chúng mi thích đè đầu cưỡi cổ thiên hạ để kiếm tiền hưởng thụ, thì ta sẽ chiều ý thôi. Nghĩ thế nên giận, tả ao lên tiếng:
- nghe các vị nói như vậy, ta cũng cảm động lắm, thôi thì các vị có bao nhiêu để trả công, xin cứ nói thấy được ta giúp cho.
Vị tiên chỉ nghe tả ao nói thế, liền đáp:
- trong đình chỉ còn vỏn vẹn 500 quan tiền, mong cụ lấy giúp.
Tả ao lại giận trong lòng, đình làng nghèo mà cúng kỳ yên đến hai bò năm trâu mười lợn như thế này thì thánh thần nào chứng, nhưng để làm gương cho đám chức sắc, ông cũng hài hả đáp:
- thôi được, mấy vị đã nói thế ta cũng giúp cho làng, sau này ai cũng đè đầu cưỡi cổ thiên hạ đều được cả.
Ngay sau đó, tả ao ra trước sân đình đặt tróc long định hướng, rồi cắm hướng mới cho ngôi đình. Xong ông cáo biệt đi thẳng.
Mấy tháng sau khi đình đã được xoay ngôi đổi hướng, các vị chức sắc kỳ mục không nói cho dân làng nghe chuyện, mà chỉ dặn con cháu ra công đèn sách nay mai ứng thí. Nhưng quái lạ, tất cả đám con trai, từ lớn đến bé hễ cầm quyển sách định học, nhưng học mãi mà chữ nghĩa chẳng vào đầu. Các thầy đồ được mời đến dạy cũng thở dài ngao ngán. Sau đó, thay vì sách vở bút nghiên, càng ngày càng có nhiều anh con trai con các chức sắc kỳ mục rủ nhau đi sắm hòm đồ nghề thợ cạo, xách đi khắp nơi hớt tóc dạo. Trong lúc hành nghề, họ tha hồ mà “đè đầu đè cổ” Thiên hạ để… Cắt tóc, cạo mặt, ngoáy tai…
Các cụ chức sắc lúc ấy mới ngã ngửa hiểu ra cái thâm ý của thầy tả ao trước đây nhưng cũng hiểu rõ vì quá tham lam, chỉ biết tư lợi cá nhân, nên mới bị tả ao chơi trác.

2.5 tả ao trị kẻ gian xảo

ở tỉnh đoài có một gã trọc phú thích công danh, chỉ ước cho hai con mình được đỗ đạt hầu vênh vang với thiên hạ.

Nhân dịp tả ao ghé qua tỉnh, nhà trọc phú bèn túm lấy năn nỉ ông, đặt giúp cho một ngôi mộ làm sao cho hai đứa con được đỗ bảng nhãn, thám hoa rồi được bổ làm quan.
Tả ao nói :
- nếu ông thực lòng muốn thế thì tôi sẽ giúp, nhưng tôi xin nói thật, để thỏa lòng việc này cũng phải tốn kém lắm!
- tốn kém như thế nào xin ông cứ cho biết, tôi sẽ cố gắng lo liệu – gã trọc phú nói.
- chí ít cũng phải 500 quan tiền. Ông biết đấy, đoạt được bảng nhãn, thám hoa, đâu phải chuyện chơi !
Gã trọc phú liền gãi đầu :
- thưa ông, những 500 quan một ngôi mộ… Chẳng giấu gì ông, tôi đang gặp cơn đen vận túng, chi những 500 quan một lúc, cũng khá nặng. Xin ông nới tay cho thì tôi cảm ơn lắm!
- thế chí ít ông chi được bao nhiêu quan tiền?
- chừng 200 quan có được không? Xin ông ra ơn làm phúc, sau này như ý tôi sẽ hậu tạ thêm !
- 200 quan thì sao đủ? Nào phải phân kim, xem hướng long mạch, định huyệt, rồi cúng tế cho ngũ phương, ngũ thổ long mạch thần linh, nào trạch chúa, sơn hà hải ngạn chi thần, nào đương niên đương canh mệnh vị thần quân, nào thành hoàng bản cảnh đại vương liệt vị ! Những ngần ấy thứ sao đủ sắm lễ…
- thôi được! Ông đã có lòng giúp thì tôi cũng vui lòng dấn thêm, ta quyết với nhau 300 quan tiền nhé! Xin ông bắt tay vào việc ngay ch !
- thôi được! Tôi nể lời ông lắm vì muốn tạo phúc cho con cái.
Tả ao sau khi nhận tiền xong, sai người đi mua một chiếc tiểu sành. Còn bao nhiêu tiền đem cho những người nghèo khó hết.
Hôm sau, dưới sự chỉ dẫn của tả ao, gã trọc phú và đám gia nhân bốc ngôi mộ tứ đại chôn vào ngôi huyệt mới. Rồi tả ao giao cho gã trọc phú một ống tre, trong đựng một tờ “phép”, dặn phải đúng một năm sau mới được mở ra xem. Nếu táy máy mà giở ra đọc trước, ngôi mộ sẽ hỏng mất thì đừng trách ông.
Chưa được một năm, bỗng nhà trọc phú gặp liên tiếp nhiều tai họa, gia sản bị cướp bóc , lại bị thưa kiện, rồi bệnh hoạn. Hai thằng con trai thì đổ đốn bỏ học, đi chơi bời lêu lổng thêm tính nghiện hút. Gia đình lâm vào cảnh cùng quẫn, cả nhà phải xoay ra làm nghề mổ heo đem ra chợ bán kiếm miếng ăn. Mấy cha con hóa thành đồ tể.
Đúng ngày tả ao dặn, gã trọc phú tán gia bại sản mới giở ống tre ra xem, thì thấy có một mảnh giấy trong đó viết mấy câu sau:
Thiếu tiền 3 quan
bị giảm 3 phần
bút hóa ra cây xiên (thịt)
nghiên hóa ra thớt
bảng nhãn thám hoa
hóa ra đồ tể!
Đọc xong tờ giấy, cả nhà mới ngã ngửa người ra. Thì ra lúc giao tiền cho tả ao, gã trọc phú đã cố tình đếm thiếu 3 quan. Gã có ngờ đâu hành vi ấy đã làm tả ao giận và ông đã đặt mộ tổ nhà kẻ trọc phú vào mảnh đất phát về nghề giết mổ.

2.6 tả ao và anh chàng học trò

ở một làng có một anh chàng láu cá thượng hạng nhưng thông minh và hiếu học. Hoàn cảnh anh ta thật đáng thương, có người chị gái góa bụa có con thơ, vẫn phải đầu tắt mặt tối nuôi em ăn học. Hai chị em bữa đói bữa no.

Anh chàng cảm thấy vô cùng phẫn chí.
Bỗng một hôm anh ta nghe tiếng thầy tả ao đi qua làng, bèn liều mình đến lạy ông thương xót hoàn cảnh của hai chị em mà gia ân làm phúc. Tả ao thấy anh ta mặt mày khôi ngô, lại tỏ ra con người có chí tiến thủ, bèn nhận lời.
Sau khi làm bữa cơm đãi thầy, người chị sụt sùi kể:
- bẩm cụ chẳng may cho hai chị em cháu, cha mẹ đều mất sớm. Em cháu đã cố theo nghiệp bút nghiên, mà không hiểu sao đi thi mấy lần đều trượt. Nay chị em cháu trông cậy vào cụ, xin cụ rộng lòng thương!
Tả ao mới hỏi:
- thế mộ cụ thân sinh của chị đặt ở đâu?
Người chị nghe hỏi, càng nức nở khóc rằng:
- thưa cụ, cha mẹ chúng cháu mất từ khi chúng cháu còn quá nhỏ, nên đến nay không còn biết mộ đặt ở chỗ nào nữa!
Tả ao suy nghĩ rồi bảo:
- thôi, cũng không can hệ gì!
Đoạn ông vừa uống rượu vừa chú ý nhìn ra ngoài sân. Chợt phát hiện có một luồng khí trắng từ dưới đất bốc lên, đích thị đó là khí long mạch.
Tả ao liền nghĩ đến phép “táng sống”, một trong những phép vi diệu nhất của môn địa lý phong thủy.
Ông sai hai chị em đào một cái hố ở ngay địa điểm có luồng khí bốc lên, sâu hơn hai thước. Sau đó bảo chàng trai đứng xuống hố và dặn hễ thấy nóng tới đâu thì phải báo cho ông biết tới đấy.
Đoạn tả ao đứng ở một chỗ khác, dùng chân dậm lên long mạch, miệng khấn: “bản xứ thổ địa long mạch thần linh, phóng hậu khí vào anh học trò thi cử lận đận”.
Quả nhiên anh học trò bắt đầu thấy nóng ran từ dưới bàn chân nóng lên đầu gối rồi lên đùi. Anh ta nghĩ rằng chắc càng nóng nhiều và càng lên cao trên mình thì càng tốt. Vì vậy anh ta cố sức chịu nóng. Tả ao liền hỏi:
- nóng đến đâu rồi?
Anh học trò thấy đã nóng tới đùi, nhưng nói dối rằng:
- thưa cụ, tới bắp chân rồi ạ!
Lát sau tả ao lại hỏi:
- nóng tới đâu rồi?
- thưa, tới đùi rồi ạ!
Tả ao dậm mạnh chân hơn rồi lại hỏi:
- nóng tới đâu rồi?
Thực ra nóng đã tới vai, nhưng anh học trò láu cá lại bảo:
- thưa, tới bụng rồi ạ!
Tả ao lấy làm lạ, tại sao lần này hậu khí lại lên chậm như thế? Ông lập tức chạy đến chỗ chàng trai, sờ vào người thì thấy nóng đã tới vai. Ông bực lắm quát:
- tại sao đã nóng tới vai mà anh lại bảo mới nóng đến bụng? Anh nói dối thế này rồi sẽ gặp đại họa. Tôi bảo trước cho anh biết, sau này anh tuy được làm quan nhưng sẽ phải chết bất đắc kỳ tử.
Nói xong, tả ao vào khoác tay nải đi luôn một mạch. Vừa đi ông vừa hối hận, rằng đã già trên đầu hai thứ tóc còn bị một thằng con nít́ lừa. Giá ông không nhanh trí chạy lại sờ xem thì chắc anh chàng láu cá sẽ chờ nóng đến đầu, ắt sẽ được làm vương.
Hiệu quả của sự “táng sống” Này thật là mầu nhiệm. Từ hôm đó, anh chàng học một biết mười, chẳng bao lâu chiếm được bảng vàng rồi được bổ làm quan đến chức nhất phẩm, nhưng về sau trong nước xảy ra loạn lạc, vua sai anh ta cầm quân đi đánh và bị trúng tên chết liền tại trận.

2.7 tả ao và làng làm nghề đóng cối

một hôm tả ao đang đi bị lỡ độ đường, ông phải vào một làng xin ngủ đỡ qua đêm.

Tả ao đi đã nhiều nơi nhưng không thấy nơi đâu buồn tẻ như cái làng này. Tất cả đàn bà trong làng đều tất bật lam lũ, gồng gánh suốt từ mờ đất cho đến lúc gà lên chuồng vẫn chưa ngơi tay. Họ phải làm hàng xáo (bán gạo thóc), nào đong gạo, phơi phóng, sàng sẩy, phân loại gạo nào ra thứ gạo ấy rồi gánh ra chợ đua tài buôn chín bán mười, lấy tiền nuôi chồng nuôi con. Trong khi các ông chồng lại quanh năm không mó tay vào một công việc gì. Suốt ngày rủ nhau hết rượu chè hút xách, lại cờ bạc thâu đêm suốt sáng.
Tuy làng này đối với ông không có họ hàng gì, nhưng không hiểu sao tả ao vẫn không thể nào nhẫn tâm mà bước đi tiếp. Ông nghĩ phải tìm cách kiếm cho bọn đàn ông trong làng một nghề ngỗng gì đó cho họ làm.
Sáng hôm sau, ông ra quán nước đầu làng ngồi uống nước, gặp ngay vị tiên chỉ. Sau câu chào hỏi làm quen, tả ao nói:
- bẩm cụ, tôi là thầy địa lý, hôm nay rảnh rỗi đi xem phong thủy vùng ta hung cát thế nào…
Ông tiên chỉ mừng rỡ kêu:
- ối trời đất ơi! Thì ra cụ là thánh địa lý tả ao đấy à. Lạy thánh mớ bái, tôi thật là được văn kỳ thanh mà bất kiến kỳ hình. Thưa cụ, xin mời cụ vào trong đình để các vị bản chức trong làng được yết kiến thánh nhan của cụ và xin cho mấy lời chỉ bảo, xem cái lẽ hung kiết của làng ra sao. Sau nhờ bảo ban cho chúng tôi một lời.
Trước sự niềm nở của ông tiên chỉ, tả ao bằng lòng theo ông ta vào trong đình. Ông được các vị chức sắc trong làng thiết đãi khá tươm tất. Sáng hôm sau tất cả hương chức cùng nhau dẫn thầy đi xem phong thủy. Nhân tiện, tả ao hỏi xem trong làng này có nghề gì phát đạt nhất.
Cụ tiên chỉ đáp:
- ấy thưa cụ, trong làng này độc nhất có nhà tôi làm nghề làm cối xay đã lâu. Cái nghề tuy kiếm được đồng tiền bát gạo, nhưng phải cái lao lực chứ không được nhàn hạ. Vì vậy mà bao nhiêu tráng đinh trong làng quen dài lưng chẳng ai chịu theo nghề. Tôi cũng rất lấy làm tiếc.
Tả ao nghe xong vừa đi vừa nghĩ, rồi ông lẩm bẩm:
- không chịu theo, lười lao động hả. Rồi ta cho phải theo, phải làm tất.
Chợt tả ao phát hiện ra một gò đất ở cuối làng, cho rằng có thể làm nên cơ sự ở cái gò đất này.
Ông bảo với vị tiên chỉ:
- cái gò này án ngữ ở đây không lợi cho làng ta mấy. Nó cản trở cả phần đinh (sinh con sinh cháu) lẫn phần phú (tiền tài). Vậy phải được cải đổi đi một phần, tất sẽ có lợi.
Các hương chức đều nhất trí:
- cụ dạy thế nào chúng tôi xin thi hành như thế. Được như lời cụ thì thật phúc cho làng quá.
Ngay lập tức các tuần đinh được điều động mang cuốc xẻng ra bạt hai dẻo đất phía tả và phía hữu của gò đất, như thể cắt bớt cánh của con chim ưng. Gò đất chỉ còn lại một ụ tròn, hai bên có hai cái tai như tai cối xay gạo.
Thấy lạ một vị kỳ mục lên tiếng thắc mắc hỏi:
- thưa cụ tôi xin hỏi, cứ như con mắt tôi nhìn thì gò đất này bây giờ trông sao mà giống cái cối xay gạo đến thế?
Tả ao cười:
- thưa cụ, sách địa lý đã dạy: “địa lý bất ngoại địa hình” (địa lý không ngoài hình thể đất đai). Nên sau này về hậu sự, các cụ sẽ thấy sách dạy không sai.
Sau khi cải đổi hình thể gò đất xong, tả ao cáo bận xách túi đi ngay. Các hương chức biếu ông tiền, ông cũng nhất định từ chối.
Quả nhiên mấy tháng sau, tình hình trong làng khác hẳn. Các bà vợ đều mang thai hết một loạt. Rõ ràng làng đã phát về “đinh”, nhưng đồng thời vì bận con mọn nên không ai đi bán hàng xáo nữa.
Các ông chồng hết còn cơ hội bám váy vợ để hưởng thụ an nhàn, nên cực chẳng đã phải tính cách đi kiếm sống. Ông tiên chỉ cho gọi họ sang mở lò đóng cối, không một ai chê bai gì nữa. Tình trạng rượu chè cờ bạc của cánh đàn ông hầu như tuyệt hẳn mà cái nghề làm cối xay này rõ ràng là kiếm ăn được, cối xay làm ra không kịp để bán. Các lái buôn từ các tỉnh tín nhiệm thứ cối gỗ mít thượng hạng của làng, đã ùn ùn kéo đến mua cối về bán.
Tất cả mọi người ngẫm lại lời của tả ao nói ngày trước mà bái phục. Rõ ràng “địa lý bất ngoại địa hình” Là cuối làng có một gò đất có hình cối xay và làng thì lại phát ề nghề làm cối xay, nổi danh khắp thiên hạ!

3: Nhà Tây Sơn

Hoành sơn một đại địa:
Hoành sơn còn gọi là núi ngang nằm trong dãy tây sơn thuộc địa phận xã bình tường quận bình khê tỉnh bình định. Hoành sơn không cao (364m) nhưng dài và rộng, ở xa trông rất tuấn tú, khôi hùng. Theo các nhà phong thủy tàu và địa phương cho biết thì hoành sơn là đại địa và hiện tại hoành sơn là một trong “nhị thập bác cảnh” Của bình định. Vì chung quanh hoành sơn có nhiều ngọn núi bao bọc, mỗi ngọn mang một dáng dấp cổ vật như núi bút
(trưng sơn), núi nghiên (nghiên sơn), núi ấn (ấn sơn), núi kiếm (kiếm sơn), núi trống (cổ sơn), núi chiếng (chung sơn), trước mặt là ba dãy gò cao đá mọc giăng hàng rông như quân chầu, hổ phục, phía dưới là hai phụ lưu sông côn từ phía tây và phía bắc chay ra họp nhau ở địa đầu thôn phú phong như hai cánh tay người mẹ ôm chặt lấy hoành sơn. Địa thế thật cũng đáng gọi là long bàn hổ cứ.

Tam kiệt tây sơn nguyễn nhạc, nguyễn huệ và nguyễn lữ sinh trưởng trong một gia đình nông thôn tại làng phú lạc (bình khê) hướng vọng về dãy hoành sơn này. Nhưng rồi thời thế tao anh hùng, địa linh sinh nhân kiệt hay long mạch do mồ mả tổ tiên mà ba anh em tây sơn trở thành những trang anh hùng cái thế, lật đổ nguyễn, diệt tan trịnh, đánh bại mãn thanh, thống nhất nước việt nam vào cuối thế kỷ thứ 18? Điều đó xin nhường lại cho lịch sử phân định. Nhưng theo các vị thức giả ở bình khê kể lại thì nhà tây sơn phát đế nghiệp là nhờ cuộc đất chôn thân sinh của ba ngài trân dãy hoành sơn.




Huyền thoại về long huyệt: Các cụ kể rằng:

Trước ngày ba anh em tây sơn khởi nghĩa, trong khoảng thời định vương nguyễn phúc thuần (1765-1777) trị vì, có một ông thầy địa lý tàu thường ngày xách địa bàn đi đi lại lại trong vùng tây sơn để tìm phúc địa. Nguyễn nhạc thấy vậy theo rình. Một hôm thầy địa lý dường như đã tìm ra long mạch nhưng còn phân vân không biết huyệt khí nằm ở đâu, thầy mới đem hai cành trúc xanh tốt và đều nhau đến cắm ở triền phía đông dãy hoành sơn hướng phú lạc (nơi sinh trưởng của ba anh em tây sơn) phía bắc một cây và phía nam một rồi bỏ đi. Nguyễn nhạc ngày ngày để ý theo dõi hai cành trúc ấy. Hai tháng sau, cành trúc phía bắc vẫn sống xanh tốt như khi mới trồng còn cành phía nam thì héo khô. Nguyễn nhạc cả mừng vì biết rằng long mạch đã ứng hiện nơi cành phía bắc, bèn nhổ cây khô phía nam đem cắm ở phía bắc và nhổ cây tươi ở phía bắc đem cắm vào phía nam.

Đúng 100 ngày kể từ ngày trồng trúc, thầy địa lý tàu trở lại thấy hai cành trúc đều chết cả, thầy nhún vai, trề môi lắc đầu chê là “giả cuộc” Rồi bỏ đi thẳng. Nguyễn nhạc mừng rỡ về bàn với hai anh em rồi hốt hài cốt của cha đem chôn nơi cành phía bắc.

Lại có cụ kể rằng:

Có một thầy địa lý tàu lúc đến tìm địa cuộc ở vùng đất tây sơn thường tá túc nơi nhà nguyễn nhạc và nhờ nguyễn nhạc dẫn đường cho thầy đi tìm long mạch khắp vùng tây sơn. Sau nhiều lần xem xét, ngắm nghía, đo đặt địa bàn, thầy chú ý đến dãy hoành sơn và tỏ vẻ đắc ý cuộc đất này lắm. Đoạn thầy bỏ đi. Một thời gian sau thầy trở lại cũng ghé nơi nhà nguyễn nhạc mà tá túc. Nhưng đặc biệt, lần này, ngoài chiếc địa bàn thầy lại còn mang theo một
chiếc trắp nhỏ ngoài bọc tấm khăn điều. Nguyễn nhạc đoán biết là thầy tàu đã tìm ra được long huyệt và… Chiếc tráp kia là hài cốt của cha ông mang sang chôn. Nguyễn nhạc bèn đóng một cái trắp giống hệt như cái trắp của thầy tàu và hốt hài cốt của thân sinh mình đựng vào rồi tìm cách đánh đổi. Nhưng thật khó mà đánh đổi được vì cái trắp ấy thầy tàu luôn luôn mang theo bên người không lúc nào rời. Nguyễn nhạc hội hai em lại và nghĩ ra một kế.

Đến ngày lành đã chọn, thầy tàu lẻn mang trắp cùng địa bàn đi lên dãy hoành sơn. Vừa đến chân núi thì một con cọp to bằng người trong bụi rậm gầm lên một tiếng dữ tợn rồi nhày xổ ra vồ. Thầy tàu thất kinh hồn vía văng trắp và địa bàn mà thoát thân. Hồi lâu hoàn hồn, không thấy cọp rượt theo thầy mon men quay lại chỗ cũ, thầy mừng quýnh vì chiếc trắp và địa bàn vẫn còn nằm lăng lóc ở đó, thầy vội vã trèo lên nơi long huyệt đã tìm trước mà đào bới chôn cất. Xong, thầy hớn hở trở về với hy vọng chờ ngày “long huyệt vương phát”. Không ngờ chiếc trắp thầy chôn là hài cốt của hồ phi phúc còn con cọp kia chỉ là người giả mà thôi.

Hai thuyết kể trên tuy có khác về tiểu thuyết nhưng vẫn giống nhau là hài cốt của hồ phi phúc được chôn nơi long mạch trong dãy hoành sơn.

Các cụ còn kể tiếp rằng:

Sau khi chôn mộ cha trên hoành sơn thì ba anh em nguyễn nhạc vùng phát tướng. Mặt mày sáng rỡ, học hành thông thái. Thầy giáo hiến dạy ba anh em nhạc vốn là người có biệt nhãn lại thông thạo về khoa tướng số, xem biết anh em nguyễn nhạc đã vượng thời nên mới đem câu sấm “tây khởi nghĩa, bắc thu công” Ra mà khuyên nguyễn nhạc. Từ đó ba anh em
nguyễn nhạc mới rắp tâm mưu đồ đại sự, chiêu tập hào kiệt, lấy dãy hoành son làm căn cứ.

Mãi cho đến khi nguyễn huệ đại thắng 20 vạn quân thanh tại gò đống đa, đuổi tôn sĩ nghị chạy về tàu mình không kịp mặc giáp, nhựa chưa thắng yên cương, mà còn nuôi mộng lớn lấy lại đất lưỡng quảng, cầu hôn công chúa vua càn long, tiếng tăm vang dội cả trung quốc.

Ông thầy địa lý năm xưa nhớ lại chuyện cũ, bèn bôn ba sang lại hoành sơn xem thử thì quả nhiên cuộc đất tìm ra năm trước đang phát. Hỏi thăm thì đó là mộ của hồ phi phúc thân sinh ba vua tây sơn.

Thầy địa cả giận vì sự cướp đoạt long huyệt của mình đã tìm ra và để tránh hậu họa chiến tranh việt-trung, thầy địa bèn lập mưu phá long mạch bằng cách bảo nguyễn nhạc hãy lấp mấy ngọn phụ lưu sông côn ở phía nam và đào thêm mấy nhánh khác ở phía bắc để dẫn thủy vào ruộng cho nhân dân cày cấy làm, ăn, nguyễn nhạc tưởng thật nghe lời.

Những nhánh sông vừa đào sông thì đùng một cái ở phú xuân nguyễn huệ băng hà ngày 29-7-1792 (có tài liệu lại ghi 6-9-1792). Ở trong nam thì nguyễn ánh chiếm hết đất miền nam rồi kéo quân ra đánh quy nhơn. Nguyễn nhạc chống không nổi phải cầu cứu cháu là nguyễn quang toản, nguyễn quang toản thừa thế cướp thành quy nhơn rồi lại sáp nhập lãnh thổ của
bác vào lãnh thổ của mình. Nguyễn nhạc tức giận thổ huyết mà chết ngày 13-12-1793.

Nguyễn huệ mất lúc 40 tuổi, làm vua được 5 năm. Con, nguyễn quang toản 10 tuổi lên ngôi thái sư bùi khắc tuyên chuyên quyền làm bậy, triều thần chia rẽ, tướng tá giết hại lẫn nhau. Nguyễn nhạc làm vua được 16 năm, sau khi chết con là nguyễn bảo cũng bị nguyễn quang toản giết. Từ đó, nhà tây sơn suy dần và đến năm 1802 thì bị nguyễn ánh dứt hẳn.

Vì sao vua Quang Trung không thay đổi được Long Mạch?

Theo truyền thuyết, vì bị gián điệp của nguyễn ánh xúi dại, 3 anh em nhà tây sơn đã đào sông làm phá hỏng long mạch của huyệt đất kết nhà mình.

Chóng tàn như hoa ép nở sớm

Giữa thế kỷ 18, ba anh em nhà tây sơn nổi lên khởi nghĩa. Chỉ trong thời gian ngắn đã đánh tan các thế lực cát cứ phân chia đất nước thành đàng trong, đàng ngoài rồi lại đánh tan 5 vạn quân xiêm và hơn 20 vạn quân thanh lăm le nhòm ngó. Nhưng ngay sau chiến công hiển hách một thời gian cũng rất ngắn thì sự nghiệp nhà tây sơn tuột dốc sau cái chết của vua quang trung.

Sự kết thúc mau chóng của một triều đại có chiến công chống ngoại xâm hiển hách như vậy đã khiến cho nhiều người nuối tiếc. Bởi thế trong dân gian đã phát sinh nhiều truyền thuyết để giải thích sự việc đó. Một trong những truyền thuyết như vậy đi tìm về lý luận phong thủy để giải thích.

Trong cuốn sách “thế giới có gì thần bí” Của nguyễn hoàng điệp và hoài giang có dẫn lại một truyền thuyết nói rằng triều tây sơn có một viên quan tên là trần huy đống tinh thông phong thủy. Ông này tương truyền là cháu ngoại thánh địa lý tả ao, và là tác giả của bộ “địa cơ bí lục”.

Nghe trần huy đống tinh thông phong thủy, vua quang trung cho mời ông vào xem hai ngôi mộ (song táng) trên núi một, xã hoành sơn, bình khê. Xem xét kỹ địa hình, đống biết đây là kiểu đất “sư tử ngủ” Rất quý nhưng đã bị ba con rồng: Đà hằng, la dĩ, cửa tiền triệt phá.những con sông là do trước đó ngô nhân tịnh (gián điệp của nguyễn ánh và bọn thầy địa lý tàu) đã xui ba anh em nhà tây sơn đào.

Trần huy đống xem xong than tiếc nói rằng: Nếu ba con sông đào chậm lại một giáp thì quang trung không những làm đế nước nam mà còn làm chủ bắc quốc. Người này sẽ chẳng khác gì nỗ nhĩ cáp xích, gốc rợ kim, 200 năm trước đã được kiểu đất “cửu long tranh châu” Ở kiến châu nên đã bình được bốn bộ ở phía bắc, diệt được nhà minh, làm chủ trung nguyên lập ra nhà thanh.

Vua hỏi đống: Kiểu đất sư tử ngủ dậy sớm là không tốt?

Đống nói: Kiểu đất này dậy sớm như hoa nở bị thúc ép. Có nở nhưng mau tàn. Nếu nó càng dậy muộn thì càng phát lớn. Sau đấy đống khuyên nhà vua bỏ ý định cầu hôn và đòi đất lưỡng quảng.

Quang trung gạn hỏi lý do thì đống tâu thật: Kiểu đất bị cả 3 con sông triệt phá, con sư tử bị cả 3 dòng nước tạt vào mặt đã thức dậy sớm hơn kỳ hạn hai giáp. Nó có thể làm giảm tuổi thọ của người hưởng phúc địa, gia cảnh bất hòa, bất mục, huynh đệ tương tàn. Nếu nay đòi đất, cầu hôn, sẽ gây thêm hiềm khích với cường bang, trong ngoài đều thù địch thì làm sao chống nổi. Việc này nhà vua làm ngày nào sẽ gây nên hậu quả chẳng lành ngày đó.

Nghe đống nói, quang trung bán tín bán nghi hỏi có cách nào hóa giải được 3 con sông? Đống tâu lại: Chỉ riêng con sông đà hằng cũng đủ làm hư huyệt khí, chứ chưa kể đến 2 con sông đào sau. Nay có lấp bằng cả 3 con sông, hàn được thổ thì cũng không sao cứu vãn nổi. Bởi lẽ con sư tử đã thức, không thể ngủ lại như trước. Nó đã bị ba con sông làm gián đoạn long mạch, tiêu tan tú khí hội tụ.

Quang trung lại hỏi: Ta có thể di táng hai ngôi mộ đến một kiểu đất quý khác? Đống trả lời: Thưa bệ hạ đất có tuần, dân có vận, đất quý không bao giờ kết phát hai tuần. Đời người không ai có được vận quý đến 2 lần. Nếu không vua chúa các đời trước làm chủ các vùng đất quý, khi thấy triều đại suy vong, liền chuyển mồ mả đến vùng đất quý khác, như thế thì một dòng họ có thể làm vua hoài không dứt…Sau đấy vào năm 1792, vua quang trung sai sứ sang tàu cầu hôn, đòi đất.

Lúc này bắc cung hoàng hậu lê ngọc hân nhớ lại lời can của đống, khuyên vua từ bỏ ý định, nhưng vua không nghe và nói: Ta muốn dò ý, thử lòng thanh quốc, chứ không chủ tâm gây chiến, ắt không dẫn đến can qua. Tiếc thay sứ bộ vừa đến lạng sơn thì hay tin dữ nhà vua băng hà đột ngột. Sứ giả liền phải vội vã quay về.

Khí thiêng còn phụ thuộc vận số

Lời nói của trần huy đống ở trên ngoài việc nói thẳng rằng đất quý đã hỏng thì khó sửa chữa còn cho thấy một điều nữa là khí thiêng (tức đất kết) còn phải phụ thuộc cơ trời. Nếu cơ trời đã định thì con người chỉ có cách tu nhân tích đức mới mong hoán cải được. Ngoài ra không thể có biện pháp kỹ thuật nào thay đổi được.

Ngay trong bài “tầm long gia truyền bảo đàm”, cụ thánh địa lý tả ao cũng đã nói rõ: “trước là tích đức sau là tầm long” Để chỉ rõ cái ý rằng nhà không có phúc đức lớn thì dù được đất quý cũng khó phát vinh hiển lâu dài.

Trong lịch sử trước thời tây sơn cũng đã có trường hợp biết rõ cơ trời khi được huyệt đất quý nhưng cũng không sửa được chỗ nhược điểm. Đó chính là trường hợp long mạch của nhà hậu lê.

Theo sách “lam sơn thực lục”, vua lê lợi khi chưa nên nghiệp đế có lần ở quê hương có duyên gặp nhà sư già họ trịnh tên là sư núi đá trắng. Nhà vua thấy ông sư than rằng “quý hóa thay phiến đất này! Không có ai đáng dặn!” Nên bèn đi theo hỏi rằng: “miền đất của đệ tử tôi sang hèn thế nào xin sư chỉ bảo giùm”.

Nhà sư nói: “xứ phật hoàng thuộc động chiêu nghi, có một khu đất chừng nửa sào, hình như quả quốc ấn. Phía tả có núi thái thất, núi chí linh (ở miền lảo mang), bên trong có đồi đất bạn tiên. Lấy thiên sơn làm án (ở xã an khoái). Phía trước có nước long sơn, bên trong có nước long hồ là chỗ xoáy trôn ốc (ở thôn như ứng). Phía hữu nước vòng quanh tay hổ. Bên ngoài núi xâu chuỗi hạt trai. Con trai sang không thể nói được. Nhưng con gái phiền có chuyện thất tiết. Tôi sợ con cháu ông về sau có thế phân cư. Ngôi vua có lúc trung hưng. Mệnh trời có thể biết vậy. Nếu thầy giỏi biết láng lại, thì trung hưng được 500 năm.

Sau khi nghe nhà sư nói vậy, lê lợi bèn đem hài cốt của cha mình táng vào chỗ ấy. Lịch sử sau này cho thấy rõ là triều hậu lê từ năm 1428 khi vua lê lợi lên ngôi đến năm 1527 khi mạc đăng dung cướp ngôi là được quãng 100 năm. Sau đó nhờ công thần nguyễn kim phù trợ nên lại được trung hưng. Điều đó là ứng vào câu “ngôi vua có lúc trung hưng”.

Như vậy vua lê lợi đã biết từ đầu rằng long mạch nhà mình như vậy thì triều đại của dòng họ mình sẽ có lúc sóng gió giữa chừng. Tuy vậy nhà vua cũng không thể nào thay đổi được điều đó. Âu đó cũng là do cơ trời đã định.

4: Vùng đất kết nhà trần

Truyền thuyết 1 - thầy phong thủy chỉ nơi chôn cất ngôi mộ cho họ trần:



Phát vương trên đất kết.


Đến với vùng đất đó buổi sơ khai có 3 anh em nhà họ lưu, gồm: Lưu khánh đàm, lưu ba, lưu lượng. Về sau, cả ba người đều làm quan, trong đó lưu khánh đàm được vua lý nhân tông trọng dụng (khi vua sắp mất vào tháng chạp năm đinh mùi 1127 đã cho gọi đàm vào nhận di chiếu để cùng lê bá ngọc đưa hoàng thái tử là lý thần tông lên ngôi trước linh cữu). Tên tuổi của lưu khánh đàm (và lưu ba) đều được ngô sĩ liên nhắc đến trong “đại việt sử ký toàn thư”.

Đó là dòng họ thứ nhất tìm đến cư ngụ tại vùng đất phong thủy ở nguồn sông luộc. Dòng họ thứ hai đến với đất phát vương là nhà họ tô chuyên buôn tơ lụa, giàu có nhất nhì trong vùng. Nhưng cả hai họ lưu và họ tô cũng chỉ dừng lại ở mức quý tộc, cự phú, chứ không phát vương được. Mà phải đợi đến họ trần xuất hiện thì “đất kết” Mới ứng lên một dòng vương giả mới bắt đầu từ sự có mặt của một người đến từ hương tức mặc, xứ hải thanh, đó là trần hấp.

Trần hấp sinh được 2 con trai là trần lý (lý là cá chép) và trần thiện. Trần lý lớn lên kết hôn với tô thị hiền 15 tuổi, thế là hai họ trần và tô kết sui gia và tạo thành thế lực mạnh nhất trong vùng. Trần lý có người bạn họ phùng rất giỏi về khoa địa lý, được dân chúng kính nể, thường gọi là “thầy phùng”.

Ông là người biết rõ kiểu đất “hậu sinh phát đế” Ở thôn lưu gia, mà tiến sĩ đinh công vĩ đã ghi lại trong cuốn “chuyện tình vua chúa hoàng tộc việt nam” Khá thuyết phục như sau: “ba mũi nhọn chồng lên nhau này là núi tam đảo với ba ngọn phù nghĩa, thạch bàn, thiên thị. Đấy là tổ sơn, long mạch của nó chạy theo hướng đông bắc - tây nam, thấp dần rồi chìm qua sông thiên đức (tức sông đuống), đến làng hà liễu của châu đằng mới đột khởi nổi lên một ngọn núi khác.

Rồi từ đấy, long mạch lại chạy tiếp từ làng nhật cảo đến làng thái đường, kết lại ở gò sao. Phía trước gò ấy có ba gò lớn là tam thai, phía sau có bảy gò nhỏ là thất tinh, xung quanh có đầm nước bao bọc, khi mặt trời soi tới thì mặt đầm sáng như gương phản chiếu, đối mặt với các cù lao nhỏ hình đẹp như những bông sen đang nở, đấy là một trong 27 kiểu đất hậu sinh phát đế”.

Khi phát hiện ra chỗ đất kết, thầy phùng đã bàn với trần lý nên cải táng mộ ông bà của họ trần về chôn ở đó. Vì sao thầy phùng lại không thể dùng chỗ đất kết để chôn ông bà mình? Theo thầy và nhiều nhà phong thủy khác, người tìm ra long mạch và chỗ huyệt kết chưa hẳn là người có thể cải táng thân nhân của mình để con cháu phát vương được, vì cần phải ứng đúng mệnh số nữa.

Thầy phùng biết họ trần sắp phát và đã kể lại chi tiết bí mật liên quan đến câu chuyện phong thủy ở gò sao cho con mình là phùng tá chu (cũng là một nhân vật lịch sử) được biết: Vào ngày lập thu, mộ hiển thủy tổ khảo ở tức mặc và hiển thủy tổ tỷ ở lưu gia của dòng họ trần đã dời chuyển đến gò sao song táng, công việc hoàn tất đúng giờ chính hợi.

Những người tham gia rà soát các vị trí và hình thể của long mạch lần cuối để đặt la bàn xác định nơi hạ huyệt cũng như hướng cải táng đều là người họ trần. Chỉ duy nhất có thầy phùng biết chuyện. Xong việc, bên trên mộ được san phẳng y như cũ để không lộ ra dấu vết.

Sau cuộc lễ chưa lâu, vào giữa một đêm rằm sáng trăng, thái tử sảm (tức vua lý huệ tông sau này) từ thăng long chạy loạn đến vùng lưu gia đã tình cờ trông thấy và nhanh chóng say mê cô con gái xinh đẹp của trần lý là trần thị dung, lúc ấy mới 15 tuổi (là chị em chú bác ruột với trần thủ độ), rồi cưới dung. Đây là sự kiện mở đầu cho một loạt biến cố tiếp đó để vương quyền nhà lý chuyển sang tay nhà trần.

Truyền thuyết thứ 2 - thầy địa lý tàu chỉ nơi đặt huyệt cho họ trần:

Tiên tổ nhà trần ở xã tức mặc, huyện mỹ lộc, (tỉnh nam định) đời đời làm nghề đánh cá, một dải trường giang ở phía nam đâu đâu cũng là nhà.

Bấy giờ có một ông thày địa lý trung quốc sang nước ta xem đất. Chú theo long mạch từ núi tam đảo đi xuống, qua thăng long, cổ bi đến các xã kệ châu và cao xá thuộc huyện kim động, thấy có nhiều đống đất hoàn tụ, bèn cười nói rằng:Đây là chỗ đóng quân và nấu cơm. Đến xã phượng trà, huyện nam xương không thấy vết tích đâu nữa. Chú ngắm trông một hồi lâu rồi nói : Nước sông chảy mạnh, không lẽ huyệt lại ẩn tàng dưới đáy sông. Chú bèn sang sông đi đến huyện hà liễu, huyện ngự thiên, thấy các ngọn núi đều đứng thẳng, liền lấy tay chỉ và cười nói rằng: Chỗ cất đầu lên ở đây, trốn tránh ta như thế nào được. Chú tìm đến chỗ phát tích tại xã nhật cảo và chỗ kết cục tại xã thái đường mới hạ la bàn để xem xét và cứ say mê quanh quẩn mãi ở đấy không đi được.

Chợt có nguyễn cố người xã tây vệ đến đấy, hỏi khách rằng: Ông lưu ý ở chỗ này, có huyệt tốt phải không ?

Khách ngửa mặt lên trời cười nói rằng: Không ngờ ở nơi bình địa mà lại có đất đế vương. Đáng chê các thày địa lý thời nay, không thày nào có nhãn lực.

Nguyễn cố nói : Nếu quả là đất đế vương, xin ông cho tôi. Ông muốn được tạ lễ bao nhiêu, tôi cũng xin nộp đủ.

Khách nói : Nhà ông có phúc may gặp được tôi thì tôi cho ông. Nhưng sau khi táng rồi, ông phải trả tôi ngay 100 quan tiền, và về sau lấy được nước, ông phải cho tôi một nửa.

Nguyễn cố xin vâng lời, rồi đem mộ tổ táng vào chỗ ấy.

Khách sợ cố phản trắc, bèn bảo : Táng xong tất có điềm lành. Nhưng trong hạn trăm ngày, thỉnh thoảng phải đến thăm nom. Nếu sau cơn mưa gió, sấm sét, thấy có sự lạ, thì lành ít, dữ nhiều, phải táng đi chỗ khác ngay.

Nguyễn cố đem mả tổ táng vào nơi ấy, được ba bốn ngày, đến nửa đêm có một tiếng sét rất to, làm kinh động nhân dân và súc vật ở vùng ấy. Sáng hôm sau đi xem thì thấy ở các xã đặng xá, tây vệ và thái đường có nhiều hòn đá nhô lên, gọi là đá tai mèo, khắp vườn tược ao chuôm, nơi nào cũng có. Những hòn đá ấy đến nay vẫn còn.

Nguyễn cố biết là được đất rồi, rất lấy làm mừng rỡ. Vợ cố bảo rằng: Ngôi đất ấy dầu cho là phát phúc, nhưng hiện nay thì làm thế nào lo được 100 quan tiền. Vả lại sau này chia đôi thiên hạ, thì còn được bao nhiêu.cố thấy vợ nói thế, thì định bụng không tạ lễ cho chú khách nữa. Khi khách đến hỏi, cố hẹn mấy ngày sau sẽ trả. Khi đến hẹn, khách tới nhà, cố liền bắt trói lại, rồi đang đêm đem vứt xuống sông. Vất xong vội vàng chạy về.

Nguyên chỗ cố vất khách xuống là một bãi phù sa, nước thủy triều dâng lên ngập cả bãi. Sau khi vất khách xuống, nước triều rút lui, bãi phơi khô, khách nằm lại trên bãi. Chợt có một chiếc thuyền đánh cá của họ trần đi ngang qua đấy, nghe có tiếng người hô hoán, vội tới cứu đem lên thuyền, rồi cởi trói cho khách và hỏi duyên cớ.

Khách đem đầu đuôi sự việc này thuật lại cho họ trần nghe và nói thêm rằng: Nhờ có ông mà tôi được sống lại. Tôi xin đem ngôi đất quý ấy biếu ông để tạ ơn.

Người họ trần nói: Ngôi đất đó nguyễn cố đã táng rồi còn làm gì được nữa.

Khách nói:Tôi đã tính trước, ngôi đất ấy thế nào nhà ông cũng được.

Người họ trần bèn lưu chú khách ở trong thuyền, không để lộ cho người ngoài biết.

Khách bảo người họ trần lấy đồng đỏ đúc lưỡi tầm sét và lấy cây vang nấu nước để dùng.

Một đêm, mưa to gió lớn và luôn có tiếng sét đánh. Đến khi tạnh mưa, khách và người họ trần đem lưỡi tầm sét cắm xuống mộ tổ của nguyễn cố, xuyên thủng đến quan tài, rồi lấy nước vang tưới vào mộ. Sáng hôm sau nguyễn cố ra thăm, cho là mộ bị sét đánh, có máu chẩy ra, vội vàng rời mộ ra chỗ khác.



Khách bèn đem mộ tổ họ trần táng vào đó.ngôi đất này phía trước trông ra ngã ba sông cái (nguyên chú: Thuộc xã hữu bị huyện mỹ lộc, tục gọi là cửa vàng) ..phía sau gối vào voi phục, lâu đài và cờ, gươm bài trí hai bên. Huyệt ở thổ phúc tàng kim (trong đất giấu vàng), tọa càn - hướng tốn. Táng xong khách bảo rằng: Phấn đại yên hoa đối diện sinh, hẳn lấy được nhan sắc thiên hạ.

Người họ trần nói: Nếu được như lời ông, xin chia cho ông một nửa đất nước.

Khách nói : Không cần phải làm như thế. Nhà ông hưởng nước, chỉ cần đời đời tư cấp cho nhà tôi đủ ăn, đủ mặc mà thôi.

Người họ trần hứa sẽ ghi lòng tạc dạ. Rồi làm giấy tờ giao ước, mỗi bên giữ một bản để làm tin.

Lại nói chú khách vốn là người tâm cơ trí lực . Chú làm hai bản sấm thư để lại cho con cháu và dặn: Nếu sau này họ trần vẫn đối đãi tử tế, thì bảo thực cho họ biết. Nếu họ bội ước thì như thế, như thế ... Khách lại bảo họ trần rằng: Tôi đã để lại một phép, có thể làm cho nhà ông trị vì được lâu dài hơn. Phép ấy là gì, sau này sẽ bảo cho biết.

Họ trần vô cùng cảm tạ. Trần thừa là cháu ba đời, năm diên phúc thứ 8 (1218) triều lý, sinh ra trần cảnh mũi cao, mặt rồng, được chiêu hoàng nhường ngôi cho làm vua thái tông. Ban đầu khi con cháu chú khách ở trung quốc sang, các vua trần đều tặng tống rất hậu. Nhưng đến cuối đời thì đối đãi kém tử tế.

Một người cháu của chú khách sang nói với vua trần: Tổ tiên hạ thần có để lại một bản sấm thư, dặn đến năm nay thì đem sang trình quý quốc. Vua trần xem sấm thư thấy nói: Ngôi mộ phát tích ở thái đường nay sắp hết thịnh, cần phải khơi thông thủy đạo thì mới giữ được lâu dài. Vua trần tin lời nói ấy, bèn chiểu theo họa đồ ở sấm thư đào một thủy đạo từ sông cái xã phú xuân đi vào, quanh đến xã thái đường.(con sông ấy nay vẫn còn dấu vết). Không ngờ đào đứt long mạch, họ trần bèn suy , rồi bị xích chủy hầu (gọi hồ quý ly) thoán đoạt. Xét ra vua trần trị vì được từng ấy năm, là do mệnh trời, chứ sức người làm thế nào được./.



5: Huyệt đất kết và vận khí triều Nguyễn



Mặc dù cả gia long và minh mạng đều chọn cho mình những huyệt đất tốt nhưng chỉ hai đời sau vận khí triều nguyễn đã bắt đầu suy vi.




Việc kén đất của gia long và minh mạng

Vua gia long sớm đã để tâm đến việc tìm đất làm lăng mộ cho mình nên khi còn đang mạnh khỏe đã sai các quan đại thần đến vùng thiên thọ sơn tìm huyệt đất tốt. Khu vực này có 42 ngọn núi lớn nhỏ trong đó ngọn đại thiên thọ là lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng. Để tìm huyệt đất, vua tin cẩn giao cho thượng thư bộ binh phạm như đăng, đại thần tống phúc lương. Vua lại đặc biệt cho vời lê duy thanh – con trai nhà bác học lê quý đôn vào để cùng các đại thần lo công việc.


Tìm đi kiếm lại nhiều lần lê duy thanh mới chọn được một thế đất ưng ý nhưng khi vua gia long lên xem thì nhà vua không ưng. Sách "Kể chuyện các vua nguyễn" Thuật lại: “ được tin, gia long thân hành cỡi voi đến nơi xem xét, nhưng không đồng ý, nên đã chọn nơi mai táng hiện nay. Gia long nói với lê duy thanh một cách nghiêm nghị: - nếu người ta đề cập đến long mạch thì nơi đây thật chính là nơi thích hợp cho một " Lăng ". Thế có phải nhà ngươi muốn giữ chỗ này để chôn cho nhà ngươi phải không? ". Duy thanh van xin, gia long mới tha tội".

Trước khi khởi công, nhà vua lại bảo hoàng tử thứ tư bói một lần nữa, được quẻ dư, lời chiêm rằng: - đại cát hanh nghĩa là rất tốt và hanh thông. Lăng bắt đầu được xây dựng từ năm 1814 đến năm 1820 thì hoàn tất.

Sau khi vua gia long băng hà, vua minh mạng nối ngôi cũng rất chú ý đến việc xây lăng mộ cho mình. Chỉ 7 năm sau khi lên ngôi ông đã phái các quan đi đến vùng đồi núi ở quanh huế để tìm huyệt đất tốt.

Theo sách "Đại nam thực lục", vua minh mạng dụ cho các quan về việc đi tìm đất như sau:

Các thánh đế minh vương đời xưa muốn cầu nhiều phước đều có dự định đất tốt vạn niên để mong trời cho cơ đồ dài lâu. Kể từ đức hoàng khảo thế tổ cao hoàng đế ta khôi phục miếu xã, xây dựng các lăng, lại dự kế cất để nghìn muôn năm, năm gia long đã từng hạ sắc cho bầy tôi tìm kiếm ngôi vạn niên cát địa. Nay trẫm kính lo đường kế thuật, may gặp buổi thái bình, việc phần mộ không thể không dự tính trước. Vậy hạ lệnh cho đình thần cùng với khâm thiên giám đi đến miền núi thuộc các xã kim ngọc, định môn, lựa trước ngôi “vạn niên đại cát địa” Và ngôi “vạn niên cát địa”, cho được gần chốn khí thiêng mà để lại phước ấm về sau. Các khanh đều nên hết lòng nhận kỹ, cốt cho thoả hợp, rồi vẽ địa đồ dâng trình, đợi trẫm thân đến lựa chọn”.

Các quan đã đi xem xét nhiều ngày và tìm được một số ngôi đất nhưng các ý kiến khác nhau. Trải qua nhiều năm suy xét, đến năm 1840 vua minh mạng mới cho xây lăng trên ngôi đất ở núi cẩm khê. Nhà vua cũng cho đổi tên núi từ cẩm khê thành hiếu sơn. Công việc tiến hành chưa bao lâu thì vua minh mạng băng nên chủ yếu công trình do vua thiệu trị xây dựng dựa trên bản vẽ đã được vua minh mạng chuẩn y.

Đất tốt vì sao không sinh vượng khí?

Như ở trên trình bày, cả vua gia long và vua minh mạng là những ông vua đầu triều nguyễn đều rất chú trọng đến việc tìm đất kết để mong cho con cháu được hưởng phúc ấm lâu dài, vương triều truyền nối mãi mãi. Bởi vì khoa địa lý phong thủy xưa nói rằng nếu chọn được huyệt đất tốt mà táng vào đó thì con cháu sẽ được hưởng phúc ấm. Trong bài "Địa đạo diễn ca" Của cụ tả ao được sách "Phong thủy địa lý tả ao chính tông" (vương thị nhị mười, nxb hải phòng) chép lại có câu: “đất có cát địa chân long, táng cho phải phép anh hùng giầu sang”. Rồi đoạn sau lại có câu nữa: “quả nhiên huyệt chính long chân, tiêu sa nạp thủy chớ nhầm một ly, táng thoi phúc lý tuy chi, trâm anh bất tuyệt thư thi gia truyền”.

Đất tốt có nhiều kiểu đất. Có kiểu đất phát công hầu khanh tướng, có kiểu phát vương giả, có kiểu phát tiền tài... Với người dân thường thì chỉ mong được đất phát đến quan lại công hầu hoặc phát tiền tài là đã tốt lắm rồi. Nhưng ở địa vị vua gia long và vua minh mạng, không lý gì các ông lại chọn cho mình kiểu đất chỉ phát công hầu. Như vậy há chẳng phải là tụt lùi hay sao? Bởi vì các ông đã là vua thì đất chọn phải là long mạch phát vương giả để vượng khí vương triều được lâu bền, con cháu đời đời truyền nối ngai vàng mới là hợp ý, hợp lý.

Đối với việc chọn đất, cả hai vua đều làm rất cẩn thận. Vua gia long ngoài các quan trong triều còn đặc biệt mời con trai bác học lê quý đôn để tầm long cho chắc chắn. Rồi đến khi chọn được lại thân hành lên xem và còn tỏ ra khá am hiểu phong thủy khi quở trách lê duy thanh. Vua minh mạng cũng mất 14 năm suy xét và cũng đích thân đến xem rồi mới quyết định xây lăng.

Như vậy, trong một chừng mực nào đó, có thể nói rằng hai huyệt đất mà hai vị vua này chọn đều là những thế đất tốt, đã được nhiều học giả, quan lại và giới chuyên môn thời đó nghiên cứu kỹ và công nhận. Việc lăng cha ông đặt nơi đất tốt là sự thực nhưng việc chỉ hơn chục năm sau vận khí nhà nguyễn bắt đầu suy vi cũng là sự thật.

Chỉ 18 năm sau khi vua minh mạng mất, quân pháp bắt đầu xâm lược nước ta và cháu nội ông là vua tự đức liên tục phải cắt đất cầu hòa. Không những mặt sự nghiệp sa sút mà mặt vua tự đức dù có rất nhiều thê thiếp và cũng không chết trẻ nhưng cũng không có một mụn con nào.

Để giải thích cho việc vua gia long và minh mạng được táng vào đất kết phát mà con cháu đã chẳng phát lại còn suy vi chúng ta hãy quay trở lại thời trần. Theo "Đại việt sử ký toàn thư", tháng 6 năm 1248, vua trần theo lời trần thủ độ sai các nhà phong thủy đi xem khắp sông núi cả nước, chỗ nào có vượng khí đế vương thì dùng phép thuật để trấn yểm, như các việc đào sông bà lễ, đục núi chiêu bạc ở thanh hóa; lấp các khe ở kênh, mở đường ngang dọc rất nhiều.

Đối với sự việc này, sử thần ngô sĩ liên thời lê đã bình luận rất chí lý rằng: “từ khi có trời đất này, thì đã có núi sông này, mà khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời, đều có số cả. Khí trời từ bắc chuyển xuống nam, hết nam rồi lại quay về bắc. Thánh nhân trăm năm mới sinh, đủ số lại trở lại từ đầu. Thời vận có lúc chậm lúc chóng, có khi thưa khi mau mà không đều, đại lược là thế, có can gì đến núi sông? Nếu bảo núi sông có thể lấy pháp thuật mà trấn áp, thì khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời có pháp thuật gì trấn áp được không? Ví như tần thủy hoàng biết là phương đông nam có vượng khí thiên tử, đã mấy lần xuống phương ấy để trấn áp, mà rút cuộc hán cao tổ vẫn nổi dậy, có trấn áp được đâu”.

Lời bàn của ngô sĩ liên đã nói rõ cái lý là vượng khí do đất kết không thể có uy lực thắng được sự xoay chuyển của bánh xe lịch sử thời đại.

Một ý nữa cần nói đó là ngay trong chính khoa địa lý phong thủy, các nhà địa lý cũng nói rằng: “đất có tuần, dân có vận”. Có nghĩa rằng mỗi dòng họ phát vương phát tướng hay phát công hầu chỉ có thời hạn nhất định và chỉ do ảnh hưởng của một cuộc đất chứ không thể tìm thêm nhiều đất phát để mong cộng thêm phúc phần. Tức là như sự nghiệp họ nguyễn phát lên từ chúa nguyễn hoàng thì có thể đã được hưởng phúc ấm từ đất kết của cha ông hoặc cụ kị chúa nguyễn hoàng, kéo dài đến tận đời bảo đại là hơn 300 năm chứ không thể sử dụng cuộc đất kết khác để mong kéo dài phúc phần vương giả khi vận số đã hết.

6: Nhà Lý

Mảnh đất châu cổ pháp, nơi sinh của vua lý công uẩn chứa đựng những câu chuyện nửa hư, nửa thực về việc bị cao biền sử dụng những thuật phong thủy để trấn yểm, nhằm tiêu hủy khí tượng đế vương ở nước ta. Nơi đây cũng sản sinh ra những lời sấm truyền về việc lên ngôi của lý thái tổ, mở ra thời kỳ cường thịnh của đại việt.






Theo những gì “thiền uyển tập anh” Ghi chép, vào thời nhà đường ở trung quốc, vua đường ý tông (860 – 873) luôn nuôi âm mưu đô hộ nước ta mãi mãi. Tuy nhiên, vua đường nhận thấy vùng đất ấy, thời kỳ nào cũng có những nhân tài nổi lên. Bởi vậy, muốn chiếm lấy nước ta vua đường bèn tìm cách trấn yểm linh khí của nước nam. Năm giáp thân (864), để thực hiện mưu đồ của mình, vua đường cho cao biền đến giao châu làm tiết độ sứ.

Huyền thoại cao biền trấn yểm châu cổ pháp

Tướng lĩnh triều đường cao biền (821 – 887) là người đầu tiên trở thành tiết độ sứ của trị sở tĩnh hải quân (là tên gọi việt nam từ cuối thời bắc thuộc lần 3 tới hết thời loạn 12 sứ quân, kéo dài 102 năm từ 866 – 968 – pv) trong lịch sử việt nam.

Cao biền là người giỏi về thuật phong thủy, xem địa lý, đoán cát hung, do đó đã được vua đường lựa chọn giao quyền cai quản nước nam ta vào thời đó. Trong “thiền uyển tập anh” Ghi lại rằng, trước khi đi vua đường dặn dò cao biền rằng: “trưng thị là hai người đàn bà mà làm rung chuyển cả cơ nghiệp nhà đông hán; rồi lại triệu ẩu, lý bôn… Làm cho ta vất vả lắm mới dẹp được. Nay trẫm thấy linh khí an nam quá thịnh, e sau có biến. Khanh đến đó trước bình giặc nam chiếu, sau tìm cách trấn yểm linh khí an nam, đi và vẽ bản đồ về cho trẫm”.

Vâng lệnh vua đường, khi sang tới nước ta, cao biền đã dò xét rất kỹ vị trí để xây thành đại la. Hắn đã cho xây dựng thành đại la cao đến 2 trượng 6 thước, chu vi hơn 1982 trượng, trên thành xây 55 vọng gác, với nhiều điểm phòng vệ quân sự. Để làm rào chắn cho thành đại la, cao biền đã tập trung các hộ ở vây quanh với bốn vạn căn nhà. Đồng thời, cao biền đến nước ta bỏ công đi khắp nơi, xem xét núi non, rừng biển, sông hồ, chỗ nào địa thế tốt, có khí địa linh thì đều yểm cả.

Riêng núi tản viên là cao biền không dám đụng tới vì cho rằng đó là chỗ thiêng liêng của chư thần thường ngự, không thể yểm được.

Việc tướng cao biền nhận lệnh trấn yểm phong thủy nước ta vẫn là một chủ đề còn gây nhiều tranh cãi. Bên cạnh nhiều ý kiến phủ nhận thì theo một tập sách mang tên “cao biền địa lý tấu thư kiểu tự” Do tác giả vương thị nhị mười biên soạn khẳng định điều này hoàn toàn có thật. Theo tài liệu này, vào năm 1427 lê lợi công phá thành đông quan bắt được hoàng phúc - thượng thư bộ công của nhà minh nên thu được cuốn sách về phong thủy của cao biền.

Hoàng phúc sở dĩ có cuốn sách là do vua minh trao cho hắn với nhiệm vụ xét duyệt lại xem còn huyệt lớn nào mà cao biền chưa yểm thì yểm nốt. Giống như bao triều đại trung quốc trước đó, nhà minh luôn nuôi âm mưu thôn tính đại việt.

Không thể hoàn toàn dựa vào quân lực, nhà minh muốn dùng thuật phong thủy trấn yểm hòng làm cho đại việt không thể nào sản sinh ra được những thế hệ nhân tài như lý thường kiệt, trần hưng đạo…, để đưa đại việt thành quận huyện của trung quốc.

Tập “cao biền địa lý tấu thư kiểu tự” Này nói đến 632 huyệt chính cùng 1517 huyệt bàng từ ninh bình trở ra (thời đường, lãnh thổ nước ta chỉ mới vào đến khu vực này). Những kiểu đất này đều là đất phát nhân tài anh kiệt, văn thì đến tam khôi trạng nguyên, võ thì đến quận công danh tướng… Tổng cộng là hơn 2.000 ngôi đất quý.

Ngoài tập “cao biền địa lý tấu thư kiểu tự”, cao biền còn một bản tấu nữa về phong thủy là cao biền tấu thư cửu long kinh. Bản tấu này đề cập đến 27 ngôi đại địa có thể phát đến đế vương ở nước ta. Trong 27 ngôi đất này có những ngôi đã kết phát rực rỡ như ngôi đất ở tức mặc – nam định đã tạo nên một trần triều hiển hách võ công. Đặc biệt, trong những nơi mà cao biền nhắm đến có một điểm khá quan trọng, đó là châu cổ pháp, nơi mà sau này đã sinh ra bậc hiền vương lý công uẩn.

Để chặt đứt nơi có khả năng sinh ra đế vương trời nam tại cổ pháp, cao biền cùng các thầy pháp và thầy địa lý của trung quốc đã ra tay “cắt đứt long mạch” Bằng cách đục đứt sông điềm và 19 điểm ở phù chấn để yểm. Châu cổ pháp hay hương cổ pháp là một đơn vị hành chính việt nam xưa, thuộc huyện đông ngàn, phủ từ sơn. Châu này ngày nay bao gồm các làng dương lôi, đình bảng, đại đình và phù lưa, thuộc thị xã từ sơn, tỉnh bắc ninh.

Thiền sư đánh bại cao biền, bảo vệ đế vương

Mặc dù mọi việc làm của cao biền được thực hiện một cách hết sức kín kẽ và quy mô nhưng âm mưu này đã bị thiền sư thiền sư định không (730-808) đoán biết trước. Nói về thiền sư định không, ông mang họ nguyễn, người hương cổ pháp, thuộc dòng danh gia vọng tộc. Nhân duyên nhà phật đến với thiền sư định không khá muộn. Khi đã nhiều tuổi, trong một lần đi dự hội ở chùa long tuyền, được nghe thiền sư nam dương giảng kinh, ông lĩnh ngộ tôn chỉ, liền quy y đạo phật.

Thiền sư định không là một trong 3 thiền sư thuộc thế hệ thứ 8 thiền phái tì ni đa lưu chi, tu hành ở chùa thiện chúng, hương dịch bảng, phủ thiên đức. Khoảng niên hiệu đường trinh nguyên (785-805) sự dựng chùa quỳnh lâm ở bản hương. Khi xây chùa, thợ làm móng đào được một bình hương và mười chiếc khánh đồng. Sư sai người đem ra sông rửa sạch, một chiếc rơi xuống sông trôi liệng mãi đến khi chạm đất mới nằm im.

Sư giải thích rằng: Thập khẩu là chữ cổ, thủy khứ là chữ pháp. Còn thổ là chỉ vào hương ta. Nhân đó đổi tên hương diên uẩn thành hương cổ pháp. Sư có làm bài tụng như sau: “đất bày dâng pháp khí/phẩm chất thuần túy đồng/chuẩn bị cho phật pháp hưng long/đặt tên là cổ pháp”. Sau đó thiền sư tiếp tục đọc rằng: “pháp khí hiện ra mười cái chung đồng/họ lý làm vua ba phẩm thành công”. Đây được coi là lời tiên đoán về sự lên ngôi của lý công uẩn, vị hoàng đế sáng lập nhà lý trong lịch sử việt nam.

Vào năm 808, trước khi cao biền nhận lệnh vua đường sang cai quản nước ta, thiền sư định không trước khi quy tịch, đã nói với đệ tử thông thiện: Ta muốn mở mang hương ấp, nhưng sợ ngày sau gặp nạn, tất có dị nhân đến phá hoại mạch đất của hương ta.

Sau khi ta qua đời, ngươi khéo giữ đạo pháp của ta để sau gặp người họ đinh thì truyền lại. Thế là ý nguyện của ta được toại thành. Nói xong, sư cáo biệt rồi qua đời, thọ 79 tuổi. Có thể thấy, thiền sư định không đã tiên đoán được việc cao biền phá phong thủy và việc người kế tục đệ tử của ông sẽ mang họ đinh.

Sau này, vị đệ tử mà thiền sư định không nhắc tới chính là thiền sư đinh la quý (852 – 936). Ông là vị thiền sư việt nam thuộc thế hệ 10 của thiền phái tì-ni-đa-lưu-chi. Theo dân gian thì ngài la quý là người rất thông tuệ, nhìn xuyên sông núi, biết rõ nguồn gốc phong thủy, biết quá khứ và tiên đoán được tương lai. Nhiều lời nói của ông được người đương thời xem là lời sấm ngữ dự báo.

Theo sách thiền uyển tập anh, biết được việc làm của cao biền tại hương cổ pháp, thiền sư đinh la quý đã khuyên khúc lãm lấp lại những chỗ bị đào như xưa để nối lại long mạch. Sau đó vào năm 936 thời tiết độ sứ dương đình nghệ, sư đinh la quý trồng một cây hoa gạo ở chùa châu minh, làng diên uẩn thuộc hương cổ pháp (nay là xã tân hồng, thị trấn từ sơn, bắc ninh).

Việc trồng cây gạo của thiền sư đinh la quý nhằm khôi phục lại long mạch bị cao biền phá gãy. Ngoài mục đích sinh ra chân mạng đế vương, chấn hưng đất nước còn vì bậc đế vương đó có thể phò dựng chính pháp làm hưng thịnh phật giáo.

Sau khi trồng cây gạo, sư đinh la quý làm bài kệ như sau: “đại sơn đầu rồng ngửng/đuôi cù ẩn châu minh/thập bát tử định thành/bông gạo hiện long hình/thỏ gà trong tháng chuột/nhất định thấy trời lên”. Bài thơ này được xem nhằm mục đích tuyên truyền cho sự ra đời của nhà lý vào tháng 10 năm dậu. Sau đó nhà lý ra đời vào tháng 10 năm kỷ dậu (1009), ứng với sự tiên đoán của bài thơ. Có ý kiến cho rằng bài thơ do thế có thể được sáng tác trước lúc lý công uẩn lên ngôi không lâu.

Trước khi viên tịch, ông còn dặn lại sư thiền ông: “sau khi ta tịch, con khéo đắp một ngọn tháp bằng đất, dùng phép, yểm dấu trong đó, chớ cho người thấy”. Dặn dò xong, đinh la quý viên tịch, thọ 85 tuổi.

Cây gạo ông trồng sau này trở thành một sinh vật đặc biệt gắn liền với lịch sử việt nam. Bảy mươi ba năm sau, năm 1009, cây gạo bị sét đánh nhưng không chết, tại chỗ sét đánh trên thân cây có bài thơ sấm. Bài thơ được giải mã mang nội dung tiên đoán đúng các sự kiện trong lịch sử việt nam: Việc nhà lý nối nghiệp nhà tiền lê. Và rồi, cây gạo bị bão đánh đổ năm 1966 sau 1030 năm tồn tại.

Đúng như lời đoán trước khi mất của thiền sư la quý, vua lý công uẩn là người làng cổ pháp. Khi ông lên ngôi đã duy hộ phật pháp, dùng phật pháp để giáo hóa muôn dân, khiến đạo đức thăng hoa, xã hội ổn định. Kể từ đó, đại việt hùng mạnh, mở ra thời kỳ thịnh trị.

7: Thanh hóa là nơi phát tích của 4 triều đại phong kiến: Tiền lê, hậu lê, nhà hồ, nhà nguyễn và hai dòng chúa là chúa trịnh và chúa nguyễn.

Thời bắc thuộc, thanh hóa được gọi là cửu chân, sau này gọi là ái châu. Đến thời nhà lý, ái châu mới được đổi tên thành phủ thanh hoa, tên gọi này tồn tại đến triều nguyễn. Do kiêng tên húy của bà hồ thị hoa (vợ vua minh mạng, mẹ vua thiệu trị) nên thanh hoa được đổi gọi là thanh hóa.

Thanh hóa là tỉnh lỵ của tứ sơn: Bỉm sơn – nghi sơn – sầm sơn – lam sơn. Sách “lịch triều hiến chương loại chí” Của phan huy chú viết: “thanh hoa… Các triều trước vẫn gọi là một trấn rất quan trọng. Vẻ non sông tươi tốt chung đúc nên sinh ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh hoa tụ họp lại, nảy ra nhiều văn nho. Đến những sản vật quý cũng khác mọi nơi. Bởi vì đất thiêng thì người giỏi nên nảy ra những bậc phi thường…”.

Từ thời vua hùng dựng nước văn lang đến khi kết thúc triều đại phong kiến cuối cùng – nhà nguyễn – vào năm 1945, nhiều dòng họ vua, chúa đều khởi nguồn, phát tích từ đất thanh hóa (ái châu) mà ra. Đặc biệt, đất thanh hóa đã sinh ra hai vị hoàng đế – anh hùng dân tộc: Vua lê đại hành (lê hoàn) đánh thắng quân xâm lược tống vào cuối thế kỷ 10 và vua lê thái tổ (lê lợi) đánh thắng quân minh vào đầu thế kỷ 15.

Thanh hóa là nơi phát tích của 4 triều đại phong kiến: Tiền lê, hậu lê, nhà hồ, nhà nguyễn và hai dòng chúa là chúa trịnh và chúa nguyễn.

Theo thánh tả ao, đất phát vương phải là đất hợp đủ các điều kiện: “ngũ tinh cách tú triều nguyên/kim, mộc, thủy, hỏa bốn bên loan hoàn/thổ tinh kết huyệt trung ương/ấy đất sinh thánh, sinh vương đời đời. Địa danh lam sơn thuộc huyện lương giang, trấn thanh hóa (nay thuộc xã xuân lam, huyện thọ xuân, tỉnh thanh hóa) có hai nơi “tụ khí tàng phong”, nguyên khí hun đúc, đảm bảo đủ các tiêu chí trên. Sách “đại việt sử ký toàn thư” Viết: “ông tổ ba đời của vua lê lợi tên húy là hối, một hôm đi dạo chơi đến vùng núi lam sơn nhìn quang cảnh quanh đó và chợt thấy có đàn chim đông đúc đang ríu rít bay lượn quanh chân núi như thể núi lam sơn có một lực thu hút vô hình, có sức thu phục nhân tâm nhiều như chim đàn về tổ, bèn nói: “đây hẳn là chỗ đất tốt” Và quyết định dời nhà đến ở đấy”.

Tổ nhà lê dời về đất lam sơn chỉ 3 năm đã tạo sản nghiệp lớn. Họ lê làm trưởng một phương, trong nhà lúc nào cũng có tới hơn 1.000 tôi tớ, trải các đời sau sinh ra lê lợi.

Cuốn sách đầu tiên đề cập đến ngôi đất phát dưới chân núi lam sơn chính là sách “lam sơn thực lục”. Sách ban đầu do lê thái tổ (lê lợi) sai soạn và tự viết lời tựa, trong đó có câu: “trẫm gặp đời nhiều hoạn nạn, mở nước, dựng nền, càng thấy khó khăn! May mà trời cho, dân theo, gây nên được công nghiệp, ấy thực là nhờ ở các bậc tổ tông tích lũy mãi nhân đức, mà đi tới cả! Trẫm nghĩ về chuyện đó mãi bèn chép vào sách, gọi là lam sơn thực lục (sách ghi chuyện thực núi lam) cốt là để trọng nghĩa đầu gốc. Và cũng để kể rõ sự nghiệp gian nan của trẫm, truyền bảo lại cho con cháu vậy”.

Theo sách “lam sơn thực lục”, nhà họ lê còn được một nhân vật kỳ bí là nhà sư cho biết một huyệt đất phát vương ở động chiêu nghi, cũng thuộc vùng lam sơn. Lê lợi sau đó đã quyết định đem di cốt của thân phụ mình chôn ở đó, nhờ vậy mà sau này mới phát tích, trở thành đế vương.




Long mạch đế vương ở lam sơn


“lam sơn thực lục” Viết: “khi ấy nhà vua (tức lê lợi) sai người nhà cày ruộng ở xứ phật hoàng, động chiêu nghi. Chợt thấy một nhà sư già, mặc áo trắng, từ thôn đức tề đi ra, thở dài mà rằng: – quý hoá thay phiến đất này! Không có ai đáng dặn! Người nhà thấy thế, chạy về thưa rõ với nhà vua, nhà vua liền đuổi theo tìm hỏi chuyện đó. Có người báo rằng: – sư già đã đi xa rồi.

Nhà vua vội đi theo đến trại quần đội, huyện cổ lôi, (tức huyện lôi dương ngày nay) thì thấy một cái thẻ tre, đề chữ, dịch nghĩa là: “đức trời chịu mệnh. Tuổi giữa bốn mươi! Số kia đã định. Chưa tới … Tiếc thay!”. Nhà vua thấy chữ đề mừng lắm, lại vội vàng đi theo. Khi ấy có rồng vàng che cho nhà vua! Bỗng nhà sư bảo nhà vua rằng: – tôi từ bên lào xuống đây, họ trịnh, tên là sư núi đá trắng. Hôm thấy ông khí tượng khác thường tất có thể làm nên việc lớn!

Nhà vua quỳ xuống thưa rằng: – mạch đất ở miền đệ tử, tôi sang hèn ra thế nào xin thầy bảo rõ cho? Nhà sư nói: – xứ phật hoàng thuộc động chiêu nghi, có một khu đất chừng nửa sào, hình như quả quốc ấn. Phía tả có núi thái thất, núi chí linh (ở miền lảo mang); bên trong có đồi đất bạn tiên. Lấy thiên sơn làm án (ở xã an khoái). Phía trước có nước long sơn, bên trong có nước long hồ là chỗ xoáy trôn ốc (ở thôn như ứng). Phía hữu nước vòng quanh tay hổ. Bên ngoài núi xâu chuỗi hạt trai. Con trai sang không thể nói được nhưng con gái phiền có chuyện thất tiết. Tôi sợ con cháu ông về sau, có thế phân cư. Ngôi vua có lúc trung hưng. Mệnh trời có thể biết vậy. Nếu thầy giỏi biết láng lại, thì trung hưng được năm trăm năm.

Nhà sư nói rồi, nhà vua liền đem di cốt đức hoàng khảo táng vào chỗ ấy. Tới giờ dần, về đến thôn hạ dao xá nhà sư bèn hóa bay lên trời! Nhân lập chỗ ấy làm điện du tiên. Còn động chiêu nghi thì làm am nhỏ (tức là nơi một phật hoàng). Đó là gốc của sự phát tích vậy”.

Chuyện kể rằng mặc dù chôn di cốt vào ngôi đất phát đế vương ấy được lê lợi giữ bí mật nhưng giặc minh vẫn biết được. Chúng đê hèn cho quân đến xứ phật hoàng, động chiêu nghi đào lấy hài cốt linh xa cha của lê lợi mang về treo sau một chiếc thuyền đậu giữa dòng sông để dụ lê lợi ra hàng, hẹn rằng nếu đến quy thuận sẽ trọng thưởng và ban quan tước lớn.

Lê lợi sai các thân thuộc của mình gồm 14 người đi đến doanh trại của giặc lấy lại hài cốt của cha mình. Những người này đội cỏ bơi xuôi theo dòng nước, từ thượng lưu xuống, nhân lúc giặc minh sơ hở đã lấy trộm lại được hài cốt linh xa đem về cho chủ tướng, lê lợi bí mật đem chôn cất ở động chiêu nghi như cũ.

Lam sơn là đất cát tường, đất tụ nghĩa, đất xưng vương, mà người đứng lên đảm đương việc mở đầu nghiệp đế của nhà lê là lê lợi. Tuy không liên tục, quyền bính có lúc bị ngắt quãng nhưng trước sau, xét về danh nghĩa nhà hậu lê là triều đại có nhiều đời vua nhất, truyền ngôi lâu dài nhất so với các triều đại trước và sau đó.

Bí ẩn vùng đất “rồng không chân”

Các phù thủy phương bắc nhận thấy hình thế đắc địa của vùng đất thanh hóa, lo sợ nơi đây sẽ xuất hiện những bậc đế vương làm thất bại tham vọng bá chủ của chúng nên đã trấn yểm, tìm mọi cách phá bỏ phong thủy xứ thanh.



Dãy núi đông sơn – hàm rồng bắt nguồn từ làng dương xá men theo sông mã uốn lượn thành 99 ngọn núi đất, núi đá nhấp nhô như một bức tường thành hình con rồng đồ sộ. Phần cuối nhô lên một ngọn tựa hình đầu rồng nên gọi là hàm rồng (tên chữ long hạm). Ở đó có động long quang (mắt rồng). Thông ra phía sau động có một hang nhỏ là hang mắt rồng. Trên vòm hang mắt rồng có một lỗ ăn thông lên trên. Mỗi khi mưa, nước màu gạch cua chảy xuống, người xưa bảo đó là nước mắt rồng. Bên phải vòm hang có một mũi đá nhô ra gọi là đỉnh long tỵ (mũi rồng). Mạch đá ngoằn ngoèo chạy sát chân núi rồng rồi ăn ngầm xuống dòng sông mã tới ngọn châu phong là bến hàm rồng.

Non nước hàm rồng dưới bàn tay xếp đặt của tạo hóa, đã tạo nên những hình thù kỳ dị, độc đáo và đa dạng, có người ví như một “hạ long trên bộ”. Từ đuôi rồng đi lên, ngọn ngũ hoa phong hình năm bông sen chụm chung một gốc cắm xuống đầm lầy. Ngọn phù thi sơn trông giống một người phụ nữ đang nằm ngủ đầu gối vào thân rồng, núi mẹ, núi con tròn như quả trứng. Ngọn tả ao trông giống người đàn ông đang nằm vắt chân chữ ngũ, đầu quay về hướng đông. Ở sát cạnh ngọn con mèo đang trong tư thế rình mồi, núi cánh tiên có 3 ngọn vút lên cao tạo thành mỏm ba hiệu, rồi núi con cá, con phượng, núi đồng thông, núi con voi…

Hàm rồng được phát hiện như một cõi thần tiên từ lâu qua thư tịch cổ. Sách “đại nam nhất thống chí”Của quốc sử quán triều nguyễn ghi “a núi này cao và đẹp trông ra sông định minh, lên cao trông xa thấy nước trời một màu sắc thật là giai cảnh”. Dưới các triều đại phong kiến, hàm rồng bao giờ cũng là vị trí trọng yếu của xứ thanh trong các cuộc chiến tranh giành độc lập.

Hung địa theo thuật ngữ phong thủy là đất “chu tước bi khốc” (chim cất tiếng kêu sầu), hoặc đất “bạch hổ hàm thi” (con hổ đang ngậm xác chết trong miệng), hoặc “xương long vô túc”(rồng không có chân, rồng bị tật nguyền)… Truyền thuyết cho rằng khi cưỡi diều giấy bay qua vùng núi hàm rồng, nhìn thấy huyệt hàm rồng, cao biền nói rằng địa thế này là hung địa “xương long vô túc”, không phải rồng không chân mà là con rồng què chân, không phải đất cực quý rồi bỏ đi. Nhưng thực tế không phải vậy. Sau đó, cao biền đã âm thầm quay trở lại, mang theo hài cốt cha y để táng vào huyệt hàm rồng (mả táng hàm rồng) mong sau này có thể phát đế vương. Song dù nhiều lần cao biền cho mả cha vào, bộ xương cốt cứ bị huyệt núi đùn ra, không nhận. Biết rằng đây là long mạch cực mạnh, cực quý nên y rắp tâm làm đến cùng. Biền bèn tán nhỏ xương rồi tung lên thì có muôn con chim nhỏ cùng bay đến, vỗ cánh rào rào làm xương cốt bám trên vách đá bay tứ tán hết. Biền than rằng linh khí nước nam quá mạnh, không thể cưỡng cầu.

Cuộc chiến phong thủy “độc nhất vô nhị”

Theo mật lệnh của vua đường, cao biền sau khi xem, phát hiện và trấn yểm các kiểu đất kết, đất phát, long mạch của nước nam đã viết “cao biền tấu thư địa lý kiều tự” Tấu lên nhà vua. Cao biền trấn yểm thanh hóa vào thế kỷ ix thất bại. Hơn 500 năm khi giặc minh xâm lược nước ta, một phong thủy sư nổi danh của trung quốc là hoàng phúc cũng sai người đục núi, lấp sông để hòng trấn yểm các huyệt mạch đế vương, hình thành một cuộc chiến phong thủy có một không hai trong lịch sử nước việt.

Hoàng phúc xuất thân tiến sĩ, mang chức thượng thư, giữ việc bố chính và án sát trong chiến dịch cai trị đồng hóa việt nam. Trong 20 năm thuộc nhà minh (vào khoảng 1407-1427), hoàng phúc bắt khắp nơi lập đền miếu thờ bách thần, thổ thần, sơn thần, thần sông, thần gió… Bên cạnh văn miếu. Lập tăng cương ty và đạo kỳ ty để truyền bá đạo phật và lão cùng với đạo nho…

Sách “việt nam sử lược” Của trần trọng kim viết: “… Bọn hoàng phúc lại sửa sang các việc trong nước để khiến người an nam đồng hóa với người tàu. Lập ra đền miếu, bắt người mình cúng tế theo tục bên tàu. Rồi từ cách ăn mặc cho chí sự học hành, cái gì cũng bắt theo người tàu cả. Còn cái gì là di tích của nước mình như là sách vở thu nhặt đem về tàu hết sạch. Lại đặt ra thuế lệ, bổ thêm sưu dịch để lấy tiền của, làm cho dân ta bấy giờ phải nhiều điều khổ nhục”.

Hoàng phúc khi sang đất việt đã mang theo cuốn “cao biền tấu thư địa lý kiều tự” Để làm bản đồ nghiên cứu địa hình, địa vật nước ta. Thời xưa, sách địa lý là một tài liệu quân sự quan trọng, ghi rõ hình thể sông, núi, đồi, gò, cao điểm, hạ lưu, mạch núi, thời tiết… Nên hoàng phúc đã tới những tới những linh địa mà cao biền ghi nhận. Hoàng phúc đã xem xét và yểm nốt những đất kết lớn nào còn sót lại nhưng y cũng đã thất bại.

Bình luận về việc này, sử thần ngô sĩ liên viết trong “đại việt sử ký toàn thư”: “từ khi có trời đất này, thì đã có núi sông này, mà khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời, đều có số cả. Khí trời từ bắc chuyển xuống nam, hết nam rồi lại quay về bắc. Thánh nhân trăm năm mới sinh, đủ số lại trở lại từ đầu. Thời vận có lúc chậm lúc chóng, có khi thưa khi mau mà không đều, đại lược là thế, có can gì đến núi sông? Nếu bảo núi sông có thể lấy pháp thuật mà trấn áp, thì khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời có pháp thuật gì trấn áp được không?”.

Việc phá hủy long mạch tốt, huyệt đất hay của các phù thủy phương bắc cũng chỉ như muối bỏ biển, bởi xứ thanh vẫn đời đời sinh nhân tài hào kiệt.

Nhiều vị vua ở các triều đại phong kiến của việt nam và trung quốc sau khi chết vẫn thường để lại một số mộ giả, còn mộ thật được chôn ở một nơi khác, kín đáo và bí mật. Từ lâu khu vĩnh lăng ở thanh hóa được xem là nơi yên nghỉ của vua lê thái tổ. Thế nhưng phát hiện khảo cổ học cho thấy nơi đó chỉ là mộ giả. Vào thập kỷ 70 của thế kỷ trước, một người nông dân đi vào khu rừng bạt ngàn cạnh vĩnh lăng đã vô tình tìm thấy một phiến đá phẳng. Lật hòn đá lên thấy có khắc dòng chữ “vĩnh lăng tây thạch kiệt”, nghĩa là:“hòn đá mốc ở phía tây của vĩnh lăng”. Lần theo cột đá mốc phía tây, các nhà khảo cổ đã tìm được cột mốc các phía đông, nam, bắc của khu lăng mộ nhà vua. Điều đặc biệt là riêng khu cột mốc phía tây, nơi đặt phiến đá “vĩnh lăng tây thạch kiệt” Đất có màu lạ, cây to không mọc được. Các nhà khảo cổ đã đào sâu xuống đất nơi đặt phiến đá. Thật bất ngờ, những nhát cuốc đã làm lộ ra một chiếc quách tam hợp. Sau khi nghiên cứu, tìm hiểu, các nhà khảo cổ học đã kết luận: Chiếc quách tam hợp tìm thấy chính là mộ thật của vua lê lợi. Lần giở lại lịch sử, mới hay, một học giả người pháp sau khi bỏ nhiều thời gian và công sức, cuối cùng cũng đã tìm được mộ thật của vua lê lợi dưới phiến đá “vĩnh lăng tây thạch kiệt”.

8: Nhà họ Đinh

Ngôi huyệt quý dưới đầm - phát vương cho nhà họ đinh

Giai thoại phong thủy mộ phần
ngôi huyệt quý phát vương cho nhà họ đinh

Đinh Bộ Lĩnh






Đinh bộ lĩnh sinh vào ngày rằm tháng hai, năm giáp thân (tức 22 tháng 3 năm 924) ở thôn kim lư, làng đại hữu, châu đại hoàng (nay thuộc xã gia phương, gia viễn, ninh bình)[12][13]. Cha của ông là đinh công trứ, nha tướng của dương đình nghệ, giữ chức thứ sử hoan châu. Đinh công trứ mất sớm, bộ lĩnh theo mẹ về quê ngoại (gia thủy, nho quan) ở, vẫn nương nhờ người chú ruột là đinh thúc dự ở quê nội gần đó.

Từ bé đinh bộ lĩnh đã tỏ ra là người có khả năng chỉ huy, ông cùng các bạn chăn trâu lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Và trong đám bạn đó, có đinh điền, nguyễn bặc, lưu cơ và trịnh tú, những người sau này cùng đinh bộ lĩnh tạo nên sự nghiệp.

Giai thoại "Mả táng hàm rồng"

Tương truyền, ở hoa lư quê đinh bộ lĩnh có dòng sông hoàng long. Mẹ ông là đàm thị thường xuống đó giặt giũ và tắm gội. Một trưa tháng sáu bà xuống tắm dưới sông, giữa chừng thì ngất đi. Khi tỉnh lại thì bà thấy một người thân trên là đàn ông thân dưới là rái cá đang ôm ấp, liếm láp quanh thân thể mình. Sau đó thì bà mang thai, và sinh ra một người con trai. Ít lâu sau thì chồng bà là đinh công trứ qua đời, con rái cá bị dân làng bắt làm thịt và quăng xương vào một xó. Biết tin, bà gói lại tro cốt và giữ lại trên gác bếp.

Sau đó vài năm, các thầy địa lý trung quốc nhìn về phía nam và thấy năm chòm sao, mới đoán rằng xứ nam ta sắp sinh ra một vị hoàng đế, bèn quyết định sang đây tìm long mạch để trấn điểm không cho sinh ra người tài. Trong một lần đi ngang qua dòng sông hoàng long, thầy địa lý thấy một tia sáng màu hồng dưới đáy sông chiếu thẳng lên sao thiên mã. Y không biết lặn bèn nhờ một cậu bé trong làng, tên rái lặn xuống dưới sông tìm hiểu. Khi lặn xuống đáy, cậu rái thấy một con ngựa bằng đá, bèn trở lên báo lại. Y liền đưa cho cậu một nắm cỏ nhét vào miệng ngựa đó, thì ngựa há miệng ra nuốt lấy. Nghe cậu rái kể lại, thầy địa lý mừng rỡ vì bắt trúng long mạch, kêu lên: “ai táng cốt ông cha vào miệng ngựa sẽ được phát đế vương”, rồi hứa hẹn sau này lên làm vua sẽ ban thưởng nhiều cho cậu.

Rồi thầy đưa ra một số bạc vàng bảo với ông rằng: "Nay hãy tạm thù lao một ít, sau này sẽ xin tặng thêm. Tôi cần phải trở về bản quốc mấy tháng rồi lại sang ngay, bấy giờ ta sẽ nói chuyên sau".

Lúc ấy tuy còn ít tuổi, nhưng ông rất thông minh. Nghe bọn khách nói chuyện với nhau, ông hiểu ngay là huyệt ở mồm ngựa, không còn hồ nghi gì. Đợi họ đi rồi, cậu rái vốn thông minh, lanh lợi về nhà hỏi mẹ tro cốt của cha. Lúc bấy giờ bà đàm thị mới kể chuyện và đưa tro cốt rái cá cho con mình. Cậu rái lấy cỏ bọc mớ xương rồi lặn xuống sông cho vào miệng con ngựa đá. Ngựa bèn ăn hết ngay. Từ đó nhiều người phục tòng ông và tôn ông làm trại trưởng...

Cách mấy năm sau, thầy địa lý đem xương bố ở trung quốc sang, tìm đến chỗ đầm ấy để mai táng. Nghe nói đinh bộ lĩnh đã trở thành bậc anh tài cái thế, thủ hạ có hơn một nghìn người, thầy địa lý biết ngay là họ đinh đã táng huyệt ấy rồi. Thấy uổng phí bao nhiêu công sức, thầy căm tức lắm, bèn đến bảo ông rằng: "Nghe nói ông đã được đất. Cái huyệt tuy đẹp, nhưng ngựa không có gươm thì không được tốt. Nay tôi tặng cho một thanh gươm, ông đem xuống treo ở cổ ngựa, như vậy thì ông sẽ dọc ngang trời đất, đánh đâu được đấy". Đinh bộ lĩnh tin lời thầy địa lý bèn lặn xuống chỗ ngựa thần, lấy tay sờ cổ ngựa, để gươm vào đấy rồi bơi lên.

Từ đó đánh đâu được đấy, gọi là vạn thắng vương. Ông dẹp được 12 sứ quân, thống nhất dư đồ, lên làm vua, hiệu là đinh tiên hoàng. Ông ở ngôi 12 năm thì bị tên hầu cận là đỗ thích ám sát, con cả là đinh liễn cũng bị giết. Vì thầy địa lý dùng kế đánh lừa để gươm vào đầu ngựa, dòng nước phía dưới luôn chảy và chuyển động khiến lưỡi gươm ngày càng cứa vào cổ ngựa, khiến ngựa bị rụng đầu, nên hai bố con ông mới thế./

9: Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “thánh nhân mắt mù”



Trạng trình nguyễn bỉnh khiêm được dân gian truyền tụng và suy tôn là "Nhà tiên tri nước việt"; người trung hoa thì coi ông là “an nam lý số hữu trình tuyền”. Gần 5 thế kỷ trôi qua, những câu chuyện về khả năng tiên tri thấu thị của ông vẫn được truyền tụng, trong đó có giai thoại bí ẩn về xoay mộ trạng trình...

Trạng trình nguyễn bỉnh khiêm tạ thế ở tuổi 95. Tương truyền trước lúc mất, trạng có giao cho con cháu một ống tre sơn son thếp vàng, bịt kín hai đầu và dặn đúng năm tháng ấy, ngày giờ ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh thống đốc hải dương, trao cái ống này cho quan. Trạng còn dặn thêm là tuyệt đối không được mở ống ra xem trước thời hạn và trừ quan tổng đốc ra, không ai được mở ống.

Sau khi trạng mất, con cháu trạng lâm vào cảnh đói nghèo, sa sút. Nhưng phải đến đời thứ bảy, cái ống tre ấy mới được rước lên dinh quan tổng đốc, đúng ngày giờ đã ghi trong gia phả. Đang nằm nghỉ, nghe tin con cháu cụ trạng mang thư đến gặp, quan tổng đốc rất ngạc nhiên, không biết vì cớ gì, nên truyền cho vào, đồng thời quan ngồi dậy để đi ra cửa. Quan tổng đốc vừa bước khỏi giường nằm được mấy bước thì bỗng “rầm” Một cái, chiếc xà nhà bằng gỗ nặng không biết bị mọt ăn hỏng từ bao giờ, rơi ngay xuống chỗ giường vừa nằm.

Thật là một phen hú vía! Quan tổng đốc mở ống tre ra xem, thấy bên trong có một cuộn giấy, đề hai câu thơ:”Ngã giải nhĩ thượng lương chi ách/ nhĩ cứu ngã tử tôn chi bần” (nghĩa là: Cứu ngươi thoát nạn đổ nhà/ ngươi nên cứu cháu con ta khỏi nghèo). Quan tổng đốc biết rằng trạng trình đã cứu mạng, nên ông ta đã giúp con cháu cụ trạng nhiều tiền của để đền ơn.

Giai thoại còn nói rằng, trước khi chết, trạng trình có ghi vào gia phả và dặn con cháu rằng: “bình sinh ta có một tấm bia đá sẵn và đã sơn kín. Khi ta nhắm mắt rồi, các ngươi phải nhớ khi hạ quan tài xuống phải để tấm bia ấy lên nắp rồi sẽ lấp đất sau. Hễ có người lạ đến viếng mộ ta mà nói rằng “thánh nhân mắt mù”, phải lập tức mời người ấy về nhà, yêu cầu họ để hướng mộ lại cho ta. Khi chưa xảy ra, nhớ không được cải cát. Nếu trái lời, dòng dõi về sau sẽ lụn bại”.

Con cháu y lời, khoảng chục năm sau, một hôm, có một người tàu đến nhìn ngôi mộ của cụ một lúc rồi nói: “cái huyệt ở đằng chân sờ sờ thế kia mà không biết, lại tự đem đặt mộ thế này. Vậy mà gọi là thánh nhân, có mà thánh nhân mắt mù”. Người trong nhà nghe được về nói lại với ông trưởng tộc. Ông ta liền cho mời người tàu kia về nhà, xin xoay lại hướng ngôi mộ.

Ông người tàu là một nhà địa lý rất giỏi, vì nghe tiếng trạng trình nguyễn bỉnh khiêm đã lâu muốn sang đây xem di tích của cụ. Khi được đề nghị như vậy, ông ta cho rằng mình giỏi hơn trạng trình lấy làm tự đắc lắm. Ông ta bảo với người nhà ông trạng rằng: “không cần đem đi đâu xa, chỉ đào lên rồi xoay lại một chút là được”.

Khi tấm bia đá được đào lên, mọi ngươi mới thấy mấy dòng chữ: "Ngũ thập niên liền mạch tại đầu/ ngũ thập niên hậu mạch quay túc/ hậu sinh nhĩ bối há năng tri/ hà vị thánh nhân vô nhĩ mục." Có nghĩa: "Ngày nay mạch lộn xuống chân/ năm mươi năm trước mạch dâng đằng đầu/ biết gì những kẻ sinh sau? Thánh nhân mắt có mù đâu bao giờ!" Đọc xong, ông thầy tàu sợ toát mồ hôi và lúc đó mới phục trạng trình là một vị thánh.

Lại có chuyện kể rằng, năm minh mạng thứ 14, dinh điền sứ nguyễn công trứ được vua điều đi khẩn hoang ở vùng hải dương. Vấn đề là cần phải đào con sông, mà đào sông thì phải phá đền thờ trạng trình. Trứ bèn ra lệnh cho dân phu phá đền để đào sông.

Trước khi phá, sai người đào vào đền mang bát hương ra, nguyễn công trứ chợt thấy dưới bát hương có một tấm bia đá nhỏ phủ vải điều. Sau khi lau sạch, tấm bia lộ ra dòng chữ: “minh mạng thập tứ/ thằng trứ phá đền/ phá đền phải làm đền/ nào ai đụng đến doanh điền nhà bay”. Thất kinh, nguyễn công trứ chẳng những bãi bỏ lệnh phá đền mà còn cho sửa sang lại khang trang hơn.

Nguyễn bỉnh khiêm là bậc trí giả lớn mang màu sắc huyền thoại. Năm trăm năm qua, xung quanh cuộc đời và những lời tiên tri của ông có nhiều bí ẩn cần nghiên cứu, cũng như vẫn còn nhiều giả thiết tranh luận không hồi kết. Chẳng hạn vấn đề mộ trạng trình ở đâu đến nay vẫn là một bí ẩn mà nhiều thế kỷ qua các thế hệ con cháu trạng, các nhà nghiên cứu vẫn chưa có câu trả lời...

10: Long mạch Trung Quốc

Bắt nguồn từ 4 con sông lớn nam hải – trường giang – hoàng hà – lục giang, các nhà phong thủy trung quốc đã lấy 4 con sông này làm ranh giới, chia mạch núi chia làm 3 mạch lớn bao gồm long mạch bắc, long mạch trung và long mạch nam. 3 can long này đều bắt nguồn từ núi côn luân.


Thủy tổ long mạch của trung quốc bắt nguồn từ núi côn luân. Long mạch của núi côn luân được kẹp giữa các dãy núi nam bắc trùng điệp:

Phía tây bắc là núi thiên sơn, núi kỳ liên sơn, núi âm sơn

Phía bắc: Núi a nhĩ thái, núi hạ lan, núi đại tiểu hưng an lĩnh, núi trường bạch

Phía đông nam, tây nam: Núi đường cổ lạt sơn, núi hy mã lạp nhã sơn, núi hoành đoạn sơn

Núi côn luân sau khi chạy đến trung nguyên lại tiếp tục được bao quanh bởi những dãy núi hùng vĩ:

Hướng đông: Núi lục bàn, núi thái lĩnh, núi hoàng sơn, núi ngọc sơn

Hướng bắc: Núi thái hành sơn

Hướng nam: Núi vu sơn, núi tuyết phong sơn, núi võ di sơn, núi nam lĩnh, núi nga my sơn

Cộng thêm ngũ nhạc: Bắc nhạc hằng sơn, đông nhạc thái sơn, tây nhạc hoa sơn, nam nhạc hành sơn và trung nhạc tung sơn

Những long mạch lớn nhỏ này đã kéo dài long mạch của núi côn luân, tạo nên một bức tranh long mạch lớn hay còn được gọi là trung hoa cự long đồ.

Núi côn luân chính là nơi phát nguyên các long mạch trong thiên hạ.

Trong nền văn minh trung hoa 5.000 năm, truyền thuyết nói rằng bất kỳ một gia tộc nào tìm thấy long mạch, có được long huyệt trên long mạch thì có thể làm vua thiên hạ. Long mạch này xem thế nào? Đó là dãy núi có phong thủy tốt. Ngọn núi nơi có long mạch nhất định phải có đầu có cuối, có căn có nguyên, có sinh khí quán thông xuyên suốt bên trong, biểu hiện ngoại hình là nhấp nhô liên tục, sinh cơ bừng bừng.

Theo giới phong thủy, tổng cộng có 5 hệ long mạch như vậy, căn (gốc rễ) tất cả đều bắt nguồn từ dãy núi côn luân. Trong số đó, trung quốc chiếm ba long mạch, đó phân biệt là: Bắc cán long, trung cán long và nam cán long.

Bắc cán long xuất phát từ núi kì mạn tháp cách (qimantag), đi dọc theo sông hoàng hà, thông qua thanh hải, cam túc, sơn tây, hà bắc và ba tỉnh phía đông khu vực bắc bộ, kéo dài đến núi bạch đầu trên bán đảo triều tiên, sau đó biến mất trong biển, và cuối cùng liên tiếp nối đến quần đảo nhật bản. Bắc kinh và thiên tân chính là nằm trên long mạch này.

Trung cán long bắt đầu từ núi á ni mã khanh (amne machin), đi qua khu vực giữa sông hoàng hà và sông trường giang, bao quát tứ xuyên, thiểm tây, hà bắc, hồ bắc, an huy, sơn đông và kết thúc ở biển bột hải; các thành đô nổi tiếng như tây an, lạc dương, tế nam v.v. Đều là điểm tụ khí của trung cán long.

Nam cán long xuất phát từ núi khả khả tây lý, đi qua núi tha niệm tha ông, dọc theo sông trường giang qua vân nam, quý châu, quảng tây, hồ nam, giang tây, quảng đông, phúc kiến, chiết giang và miền nam giang tô rồi nhập vào biển và dừng lại. Hồng kông và thượng hải chính là nằm trong phạm vi của nam cán long.

Còn có hai long mạch hướng đến thế giới. Trong số đó, long mạch tây bắc hướng đến châu âu, trong khi long mạch đông bắc vượt qua đại dương đến châu mỹ.

Khởi điểm của long mạch tây bắc là ở dãy núi thiên sơn ở tân cương. Ở phía tây bắc của dãy núi thiên sơn, sinh ra núi muztagh và dãy núi gongerg, nhất lộ hướng tây, sau khi đi xuyên qua kazakhstan và turkmenistan, hình thành núi greater kavkaz. Sau đó, khí long mạch tiến vào romania, xuyên về hướng tây, sinh ra dãy núi alps xuyên qua pháp, thụy sĩ và áo, sau đó đi qua vương quốc anh, lại khoách triển đến tây ban nha rồi mới dừng lại.

Long mạch đông bắc đi theo hướng bắc lệch đông của dãy núi thiên sơn, sinh ra dãy núi beita và dãy núi altai ở mông cổ, sau đó di chuyển qua hai ngọn núi, tiến vào nước nga, rồi xuyên việt siberia, vượt qua eo biển bering, sau khi đến bờ bên kia của nước mỹ, sinh ra dãy núi alaska, sau rồi chuyển hướng phương nam, một mạch đến tận canada, và sinh ra dãy núi rocky nổi tiếng. Dãy núi rocky rất dài, khí long mạch trải dài một mạch đến mexico, sau đó dọc theo kênh đào sông panama đến nam mỹ, bao trùm các dãy núi lớn ở nam mỹ.

Ngũ đại long mạch này đại khái là tình huống như vậy. Trong số 24 triều đại cổ đại ở trung quốc, mỗi một triều đại đều có long mạch riêng của mình. Long mạch của hoàng đế ở lưu vực sông hoàng hà ở trung nguyên; long mạch của đại vũ ở núi cửu long huyện vấn xuyên, tứ xuyên ngày nay; long mạch của nhà thương ở lưu vực sông hoàng hà; long mạch nhà chu ở kỳ sơn, long mạch nhà tần ở hàm dương, long mạch nhà hán ở huyện phái v.v.
- Các bậc đế vương thời xưa đều rất coi trọng long mạch?
Long mạch là một khái niệm quan trọng trong phong thủy học. Long mạch có sự liên hệ trực tiếp tới sự thịnh suy của vương triều và sự ổn định của giang sơn. Các bậc đế vương xưa rất coi trọng phong thủy, long mạch, và trong lịch sử cũng lưu truyền rất nhiều câu chuyện liên quan.

Trong “tuyết tâm phú chính giải” Có viết: “long mạch được dùng để biểu thị các hiện tượng hướng đi, độ nhấp nhô, sự chuyển hướng, biến hóa của mạch núi, đồng thời từ đó suy luận bố cục tốt xấu của một vị trí địa lý nào đó”.

Văn hóa trung hoa cổ xưa cho rằng, vạn sự vạn vật trong vũ trụ sinh ra đều có sự đối ứng, long mạch trên mặt đất đối ứng với nhân mạch trên nhân gian, và thiên mạch trên trời. Thiên mạch chính là “thiên ý”, quyết định sự biến đổi của thiên tượng, long mạch chính là mạch của địa tượng, quyết định sự biến hóa của địa tượng.

Bức tranh ‘trung quốc tam đại can long tổng giám’, được tuyển chọn từ cuốn “tinh hiệu địa lý nhân tử tu tri”, do từ thiện kế, từ thiện thuật thời minh biên soạn. Bức tranh vẽ ra ba long mạch lớn của trung quốc cổ đại. Ba long mạch lớn này chính là bắc mạch, trung mạch và nam mạch.

Long mạch liên quan đến sự hưng thịnh – suy thoái của vương triều

Các bậc đế vương cổ xưa được xưng là chân long thiên tử, nếu như một người có thể làm hoàng đế, thì huyệt mộ tổ tông phải nằm trên chân long (long mạch chính) của long mạch, mới có thể tạo ra quan hệ đối ứng giữa nhân mạch và địa mạch, đồng thời cũng đối ứng với thiên mạch, như vậy mới thể hiện được là thuận theo “thiên ý”, từ đó mới đạt được hiện tượng “phi long tại thiên”, trở thành chân long thiên tử.




Long mạch có sự liên hệ trực tiếp với sự thịnh suy, hoặc thay đổi của vương triều, và cũng ảnh hưởng đến sự ổn định, trường cửu của giang sơn, vì vậy đế vương các triều đại đều vô cùng coi trọng phong thủy, trong lịch sử lưu truyền rất nhiều câu chuyện liên quan đến long mạch.

Tương truyền cuối triều minh, có nhà thiên văn ban đêm quan sát thiên tượng, thấy phía bắc trung quốc có xuất hiện đế vương tinh, vương khí rất vượng, hoàng đế triều minh vô cùng hoảng sợ, phái rất nhiều thầy phong thủy đi liêu đông phá long mạch, tổng cộng đã phá 99 long mạch ở liêu đông.

Đây là một truyền thuyết được lưu truyền rộng rãi khắp vùng tân tân, thuận phủ. Người già kể, minh triều có hai cách để phá long mạch, cách thứ nhất là ở vùng long đầu, cho tu sửa miếu hoặc xây tháp để áp chế địa khí; cách khác chính là khoét long gân, chặt cổ long mạch, trên vùng cổ long mạch sẽ khoét mương rãnh, thông thường một rãnh sẽ sâu khoảng 5 thước, rộng khoảng 6, 7 thước, sau đó nhét đầy phân ngựa, buổi tối ủ nó lên, như vậy là sẽ phá được long mạch. Trong huyện tân tân, có hơn mười mấy ngọn núi bị đào rãnh, những ngọn núi này không có cái nào ngoại lệ, đều có tên gọi chung là núi long đầu.

Có một số thôn dân cao tuổi kể, năm đó minh triều phái người đến đông bắc phá vỡ 99 long mạch, chỉ còn sót lại một, đó chính là ngọn núi phía sau thanh vĩnh lăng ngày nay – núi khởi vận. Núi chính là gốc rễ của phong thủy, là tượng trưng cho long mạch. Được biết núi khởi vận chính là huyền long, nỗ nhĩ cáp xích được sự phù hộ của huyền long này, nên về sau con cháu của ông mới giành được thiên hạ.

Năm 1644, thanh thế tổ nhập quan, hoàng đế đại thanh sau khi ở bắc kinh ổn định giang sơn vẫn không quên tổ tông, trong vòng 150 năm từ đời vua khang hy đến vua đạo quang, lần lượt 4 vị hoàng đế đã đến vĩnh lăng tế bái tổ tông 9 lần. Để bảo vệ vùng đất long mạch hưng thịnh này, triều đình nhà thanh đã mở rộng phạm vi bảo hộ kéo dài đến hết tỉnh liêu ninh ngày nay.

Trong “thịnh kinh điển chế bị khảo”, có ghi chép tỉ mỉ về phạm vi bảo hộ long mạch của triều thanh, và bản đồ bảo hộ long mạch, để giữ gìn cho long mạch không bị xâm phạm và phá hoại, vương triều thanh đã cho xây dựng hệ thống tường liễu điều biên (bao gồm các mương và kè trên trồng cây liễu) kéo dài hơn 3000m ở vùng quan ngoại.

Theo sử sách ghi chép, liễu điều biên không xây dựng các bức tường như vạn lý trường thành, mà là đào hào. Thông thường hào rộng 8 thước, sâu 8 thước. Đất cát đào hào lại được chất thành đống cao 3 thước hai bên hào, sau đó trên đống đất cứ cách 5 thước lại trồng một cây liễu, giữa các cây liễu dùng dây thừng nối lại, như vậy là hình thành nên bức tường liễu, sử sách gọi là liễu điều biên.

Trong vòng vây bảo hộ của liễu điều biên, triều đình nhà thanh còn cử thêm quân lính hùng hậu canh giữ, không cho phép sản xuất hay khai phá quy mô lớn. Việc này đã khiến cho sự phát triển xã hội của liêu ninh rơi vào đình trệ, cảnh tượng vô cùng thê lương, dân cư thưa thớt, thành quách tiêu điều.

Có lẽ là một sự trùng hợp, vốn dĩ hoàng đế các triều đại nhà thanh sợ đào đứt long mạch, nên ra sức cấm khai thác than đá ở phủ thuận, nhưng khi quốc lực suy kiệt, đã ra lệnh khai thác vào năm 1901. Mười năm sau, vương triều đại thanh vĩnh viễn lui khỏi vũ đài lịch sử.

Trung quốc có bao nhiêu long mạch

Mỗi vương triều đều có long mạch của riêng mình, lịch sử trung quốc đã từng có 24 vương triều, như vậy tính ra ít nhất cũng phải có 24 long mạch.

Long mạch của hoàng đế nằm ở trung nguyên lưu vực sông hoàng hà; long mạch của đại ngu nằm ở núi cửu long thuộc huyện vấn xuyên, tứ xuyên ngày nay; long mạch của thương thang ở lưu vực sông hoàng hà; long mạch của triều chu là ở kỳ sơn; long mạch của triều tấn là ở hàm dương; long mạch của triều hán là ở phái huyện; long mạch của tây tấn là ở hà nội; long mạch của tùy triều là ở hoàng nông; long mạch của triều đường là ở trường an, lũng tây, thái nguyên; long mạch của triều tống ở khai phong, củng nghĩa, lạc dương; long mạch của triều nguyên là ở trên thảo nguyên nội mông cổ; long mạch của triều minh là ở phượng dương, an huy; long mạch của triều thanh là ở đông bắc.

Long mạch không phải lúc nào cũng cố định không thay đổi, nhưng có một điểm tương đồng đó là: Đại đa số long mạch đều là dựa núi sát sông.

Núi côn lôn, sông hoàng hà, được coi là ngọn nguồn của sinh khí. Khí mạch từ núi côn lôn tỏa ra khắp thế giới, và chia làm 5 nhánh long mạch, trong đó có 3 nhánh là ở trung quốc, hai nhánh còn lại kéo dài hướng về châu âu, vì vậy mới được tôn xưng là vua các núi trong thiên hạ.

Long mạch trung quốc trải dài vạn sơn

Thủy tổ long mạch của trung quốc bắt nguồn từ núi côn lôn. Bên trái núi côn lôn (phía tây bắc) là dãy núi thiên sơn, dãy núi kỳ liên sơn, dãy núi âm sơn. Phía bắc có núi a nhĩ thái, chạy dọc với nó còn có núi hạ lan, đại tiểu hưng an lĩnh, núi trường bạch, bên phải núi côn lôn (hướng đông nam, tây nam) có núi đường cổ lạt sơn, hy mã lạp nhã sơn, núi hoành đoạn sơn…

Long mạch của núi côn lôn được kẹp giữa các dãy núi nam bắc kể trên, long mạch chính nằm ở thành phố tây an (cố đô trường an) tỉnh thiểm tây, sau đó phía đông chạy ra trung nguyên (hà nam), đồng thời cũng chia ra các nhánh chạy theo hướng bắc, hướng nam, hướng tây, hình thành nên một giếng thể hệ thống long mạch núi côn lôn.

Núi côn lôn sau khi chạy đến trung nguyên, chạy về hướng đông có núi lục bàn, thái lĩnh, chếch về phía bắc có thái hành sơn, chếch phía nam có núi vu sơn, tuyết phong sơn, võ di sơn; phía nam là nam lĩnh; cộng thêm ngũ nhạc: Bắc nhạc hằng sơn, đông nhạc thái sơn, tây nhạc hoa sơn, trung nhạc tung sơn, nam nhạc hành sơn. Còn có hoàng sơn ở phía đông và ngọc sơn ở đài loan (cao gần 4000m so với mực nước biển), tây nam là dãy nga my sơn.

Những long mạch lớn nhỏ này đã kéo dài long mạch của núi côn lôn, tạo nên một bức trung hoa cự long đồ (một bức tranh long mạch lớn), nó không chỉ là một mạch đơn lẻ mà là một quần thể ngọa long lớn nhỏ khác nhau.

Long mạch trung quốc thủy tú bao quanh

Sông ngòi là mạch của long mạch, nước chính là máu của long mạch. Trung quốc có ba con sông lớn, gồm hoàng hà, trường giang và châu giang. Trong ba con sông lớn thì hoàng hà và trường giang đều bắt nguồn từ cao nguyên thanh tạng, nơi bắt nguồn của sông hoàng hà là từ núi ba nhan khách lạp, còn núi đường cổ lạt nằm ở khu tự trị tây tạng chính là đầu nguồn của sông trường giang.

Hoàng hà, trường giang và châu giang đều đổ về phía đông, lần lượt chảy vào biển bột hải, đông hải và nam hải. Hoàng hà dài hơn 5.400km, chảy qua thanh hải, tứ xuyên, thiểm tây tới sơn đông rồi đổ vào biển bột hải, chảy qua 9 tỉnh; sông trường giang dài hơn 6.300km, chảy qua thanh hải, tứ xuyên, vân nam, qúy châu, hồ nam, hồ bắc, giang tô đến thượng hải thì đổ vào biển đông hải, chảy qua 8 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương.

Châu giang bắt nguồn từ cao nguyên vân qúy, chảy qua qúy châu, khu tự trị dân tộc choang ở quảng tây và tỉnh quảng đông, con sông chảy qua thành phố quảng châu tạo nên đồng bằng châu giang màu mỡ, sau đó thì đổ vào biển nam hải. Ngoài ra, phía đông bắc còn có hắc long giang, tùng hoa giang, liêu hà, áp lục giang, đồ môn giang, nộn giang; tây bắc có tháp lý mộc hà, ngạch nhĩ tề tư hà; nhã lỗ tàng bố giang, lan thương giang, nộ giang; vùng đông bộ có duy hà, hải hà, và hơn 2.000 ao hồ tự nhiên.

Ba con sông lớn chảy cùng hướng với đại long mạch, cùng với ao hồ sông ngòi lớn nhỏ hình thành nên thế núi ôm nước bọc của trung hoa.

Núi là tư thế của long mạch, nước là máu của long mạch, long mạch không thể tách rời núi và nước. Từ cổ đến nay, vùng đất núi ôm nước bọc là phong thủy bảo địa (đất quý). Con người sống trong môi trường tự nhiên non xanh nước biếc, đó chính là một sự hưởng thụ hài hòa và vui vẻ.

Đáng tiếc là, mấy chục năm nay, việc ngăn sông để xây đập, phá núi để khai khoáng, lấp hồ để xây nhà, đã khiến cho đại long mạch vốn được dân tộc trung hoa bảo vệ hàng ngàn năm nay đã bị tổn hại nghiêm trọng.

Con người phải hòa hợp với tự nhiên, mọi hành động đi ngược lại với quy luật tự nhiên của loài người, sớm muộn gì cũng phải nhận sự trừng phạt từ tự nhiên.

Lạc dương là vùng đất có chứa long mạch nghìn năm tuổi được chôn cất của 6 triều đại và 24 vị hoàng đế, có thể gọi là "Kim tự tháp phương đông".
Lạc dương – thế đất phong thủy, trung tâm của trời đất

Người trung quốc từ xưa đến nay đều rất coi trọng phong thủy, đặc biệt là ở khu vực lạc dương, hà nam, nơi được xem là cố đô của 13 triều đại và là nơi phát triển rực rỡ của nền văn hóa đồng bằng trung tâm cổ đại.

Núi mang sơn ở lạc dương là thế đất phong thủy, nơi đây là long mạch nghìn năm, chôn cất 24 vị hoàng đế. Phía bắc núi mang sơn là sông hoàng hà, tầng đất sâu, đáy là đất cát, thấm nước tốt, tầng đất rắn chắc, khô ráo.

Vì vậy, từ hàng nghìn năm nay, nó được các hoàng đế, hoàng phi, hoàng tử và tướng lĩnh lựa chọn nơi để an táng sau khi qua đời. Vì vậy, trên núi mang sơn có rất nhiều ngôi mộ cổ.
Lạc dương là cái nôi của văn hóa trung hoa

Theo quan niệm trung hoa, lạc dương ở vị trí trung tâm trời đất. Lạc dương là cái nôi của văn hóa trung hoa, có lịch sử là kinh đô trong hơn 1.500 năm, trước sau trải qua 105 đời vua. Vùng đất này đã chứng kiến không biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt đến và đi, cũng là mảnh đất trải qua không biết bao nhiêu lần thay triều đổi đại.

Nhưng triều đại nổi bật định đô lạc dương có đông chu, đông hán, ngụy, tây tấn, bắc ngụy, tùy, đường…Một danh xưng thường được biết đến của lạc dương là “cố đô 13 triều”.

Vương kiến ngôn, triều đại nhà đường nói: “trên đỉnh núi mang sơn có rất ít đất trống, nhưng có những ngôi mộ cổ của người lạc dương. Có rất nhiều ngôi mộ cổ”.

Núi mang sơn là một bức thành che chở tự nhiên ở phía bắc lạc dương và là một vị trí chiến lược trong quân sự. Chỉ cần bạn bước vào là sẽ thấy có những ngôi mộ nối tiếp những ngôi mộ, những lăng mộ có mái che ở núi mang sơn.

Thư tịch cổ trung hoa miêu tả lạc dương “sông ngòi tám phía chảy về, bắc có núi mang sơn (núi mang), nam là sông lạc thủy, đông khống chế đất sông hoài, tây giữ vùng quan lũng, núi đồi sừng sững, bên tả có ải hổ lao, bên hữu giữ cửa hàm cốc, trên thông tới u yên, dưới hướng về y khuyết”, xưng tụng lạc dương “núi sông phủ phục, hình thế đứng đầu thiên hạ”.
Vậy những người được chôn cất ở mang sơn đây là ai?

Vấn đề này phải bắt đầu từ thời đông chu, kinh đô của nhà đông chu ở lạc dương nên ở núi mang với phong thủy tuyệt vời đã trở thành lựa chọn tốt nhất.

Tổng cộng có 24 vị hoàng đế của 6 triều đại được chôn cất tại đây. Vị trí chính xác của một số lăng mộ của các vị vương nhà chu đến nay vẫn chưa được xác định. Từ thời đại thứ 12 chu cảnh vương bắt đầu, bao gồm vương kính, vương nguyên, vương trinh định, ai vương, tư vương, khảo vương, uy liệt vương, a vương, liệt vương, hiền vương, thận tịnh vương.

Theo ghi chép lịch sử, lưu hòa, nguyên hồng và hàng chục đế vương khác trị vì thiên hạ, hàng ngàn danh tướng và nhân vật nổi tiếng như trương nghi, phàn khoái, ban siêu, địch nhân kiệt, v.v… Phù dư vương và nhiều quốc vương ngoại bang, ngay cả lưu thiện, lý dục và các vị quân vương khác qua đời đều được chôn cất trên các khu đất cách thành phố lạc dương hàng chục dặm về phía bắc. Còn những ngôi mộ của những người giàu có bình thường thì nhiều vô số kể.

Bởi trong con mắt của người xưa, núi mang có phong thủy tuyệt vời.

Dù cho lịch sử lạc dương trải qua nhiều biến cố thịnh suy, bãi bể nương dâu, ngọn mang sơn ở phía bắc tòa thành vẫn là đỉnh núi thiêng trong phong thủy trung hoa.

Trong cuốn “lạc đô phú” Còn sót lại, có một bản tóm tắt chọn lọc về phong thủy của núi mang. Đại ý là: Mang sơn là rồng, là “đầu” Của lạc dương. Không có mang sơn, phong thủy lạc dương chỉ còn một nửa.

Có người nói rằng núi mang là tàn tích của dãy núi tần lĩnh và thậm chí là dãy núi lào sơn, và có sông hoàng hà ở phía bắc và lưu vực y lạc ở phía nam. Núi mang dựa vào hồng lưu của dãy núi côn luân, sông lạc hà. Trong chỉnh thể thế đất lạc dương, toàn bộ tinh hoa phong thủy tập trung ở mang sơn.

Ngày nay, các lăng mộ của núi mang đã được xác định, bao gồm 8 lăng mộ của các vị vua đông chu, 5 lăng mộ của các hoàng đế đông hán, 1 lăng của hoàng đế tào ngụy, 5 lăng của thời tây tấn, 4 lăng của triều bắc ngụy và 1 lăng đế triều hậu đường. Theo thống kê, có 24 vị hoàng đế trong sáu triều đại. Bao gồm cả lăng mộ của hoàng gia và các quan đại thần, tổng số hơn 1.000 ngôi. Nếu tính thêm những ngôi mộ của người bình thường thì lên tới hàng trăm nghìn.

Núi mang cũng trở thành mục tiêu hàng đầu của nhiều kẻ tɾộm mộ ở mọi triều đại bởi vì đây không chỉ là nơi tập trung nhiều mộ cổ nhất trung quốc mà còn là kho tàng di tích văn hóa dưới lòng đất nổi tiếng trung quốc, hàng chục nghìn di vật văn hóa quý giá đã được khai quật, có giá trị lịch sử, nghệ thuật và khoa học.

Cổ nhân chọn lạc dương và trường an làm đế đô ngàn năm


Trong 6 cố đô lớn của trung quốc, chỉ có 2 nơi có lịch sử đế đô (kinh đô) hơn một ngàn năm. Hai thành thị này theo các nhà phong thủy trung hoa cổ là nơi có long mạch “hào khí xung thiên”.

- "Muốn hiểu chuyện hưng vong, hãy nhìn thành lạc dương"


Đế đô ngàn năm – lạc dương là nơi chứng kiến không biết bao nhiêu lần thay triều đổi đại, không biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt đến và đi. Lạc dương có lịch sử là kinh đô trong hơn 1.500 năm, trước sau trải qua 105 đời vua. Đây là cái nôi của văn hóa trung hoa.

Một danh xưng thường được biết đến của lạc dương là "Cố đô 13 triều". Nhưng triều đại nổi bật định đô lạc dương có đông chu, đông hán, ngụy, tây tấn, bắc ngụy, tùy, đường…

Theo quan niệm trung hoa, lạc dương ở vị trí trung tâm trời đất. Thư tịch cổ trung hoa miêu tả lạc dương "Sông ngòi tám phía chảy về, bắc có núi mang sơn, nam là sông lạc thủy, đông khống chế đất sông hoài, tây giữ vùng quan lũng, núi đồi sừng sững, bên tả có ải hổ lao, bên hữu giữ cửa hàm cốc, trên thông tới u yên, dưới hướng về y khuyết", xưng tụng lạc dương "Núi sông phủ phục, hình thế đứng đầu thiên hạ".

Thành cổ này do chu công đích thân quan sát địa hình, quy hoạch thành lũy. Năm 770 trước công nguyên, chu bình vương định đô lạc dương, mở đầu lịch sử kinh đô 1.500 năm.

Trong chỉnh thể thế đất lạc dương, toàn bộ tinh hoa phong thủy tập trung ở mang sơn. Mang sơn là rồng, là "Đầu" Của lạc dương. Không có mang sơn, phong thủy lạc dương chỉ còn một nửa.

Nhà bắc tống định kinh đô chính ở khai phong, lấy làm đông kinh. Lạc dương vẫn là bồi đô, được gọi là tây kinh. Trong loạn tĩnh khang, quân kim công chiếm lạc dương, từ đó ngôi thành nhanh chóng suy tàn, trở thành nơi vắng vẻ tiêu điều.

Dù cho lịch sử lạc dương trải qua nhiều biến cố thịnh suy, bãi bể nương dâu, ngọn mang sơn ở phía bắc tòa thành vẫn là đỉnh núi thiêng trong phong thủy trung hoa.

- "Trường an tự cổ đế vương đô"


Tây an – tên hiện đại của trường an, là một trong bốn cố đô lớn của trung quốc với 1.100 năm lịch sử. Nơi này vừa là khởi nguồn văn minh trung hoa, vừa là điểm đầu của con đường tơ lụa.

Trường an là cố đô của 11 triều đại trung hoa: Tây chu, tây hán, tân, tây tấn, tiền triệu, tiền tần, hậu tần, tây ngụy, bắc chu, tùy, đường.

Tây an nằm ở vị trí trung tâm bình nguyên quan trung, tựa vào dãy núi tần lĩnh ở hướng nam, nhìn ra sông vị ở hướng bắc, khí hậu ôn hòa, đất đai màu mỡ.

Mưu sĩ nổi tiếng thời hán là trương lương từng kiến nghị lưu bang đóng đô trường an vì "Nơi này ba mặt giáp núi, tám trăm dặm tần xuyên, dễ thủ khó công, thật là nơi đất quý phong thủy của triều đại muôn đời. Trong toàn bộ thế đất, dãy tần lĩnh chính là long mạch của trường an.

Trong 11 thế kỷ, xuyên suốt thời đại hán – đường, các dòng sông xung quanh đã tạo thành hình thế "Tám rồng chầu trường an". Sức mạnh trung hoa trong hai triều hán – đường cũng đạt đến đỉnh cao.

Sau nhà đường, do biến đổi khí hậu, tám dòng sông lớn quanh trường an dần khô cạn. Dù quan trung vẫn là nơi đất tốt, nhưng hình thế phong thủy ở giai đoạn sau không còn được như hán – đường. Địa vị của trường an từ sau nhà đường cũng từ kinh đô của cả trung hoa suy giảm xuống thanh trung tâm một vùng.


11: Triều đại nhà thanh hưng thịnh, lụi tàn là do phong thủy?

Giải mã long mạch của triều đại nhà thanh

Chúng ta sẽ nói về nguyên lý và bí mật của phong thủy sau, còn bây giờ hãy nói đến phong thủy của một triều đại trung quốc gần thời hiện đại nhất, đó chính là long mạch của nhà thanh.



Tổ lăng của vương triều đại thanh là vĩnh lăng. Vĩnh lăng nằm ở tỉnh liêu ninh, có lẽ có rất nhiều người đã từng đi du lịch ở nơi đó, chúng ta sẽ xem về phong thủy của nó trước. Vĩnh lăng tựa lưng vào núi khởi vận, phía trước có núi yên đồng, núi kê minh làm triều sơn, bên trái có đầu của thanh long, bên phải có đuôi của bạch hổ, phía trước có sông tô tử chảy qua, dòng chảy của ba con sông: Sông nhị đạo, sông thác thảo, sông tô tử hình thành địa thế “tam thủy nhập khố” (ba dòng nước chảy vào kho), khiến cho rồng gặp nước dừng lại và kết huyệt, hình thành một miếng phong thủy bảo địa vô cùng tuyệt vời tại nơi đây, trở thành chân long huyệt một phương. Vì vậy vĩnh lăng nằm trên chân long huyệt của long mạch đại thanh.

Vào thập niên 80 của thế kỷ 20, có người đứng trên núi yên đồng nhìn về phía bắc, phát hiện núi khởi vận trập trùng có tổng cộng 12 đỉnh núi lớn nhỏ khác nhau, kể ra cũng lạ, nhà thanh có tất cả 12 vị hoàng đế, tương ứng với 12 ngọn núi của núi khởi vận. Một điều kỳ diệu khác nữa là khoảng cách của ba ngọn núi quan trọng: Núi thanh long, núi bạch hổ, núi cận án so với vĩnh lăng cũng vừa đúng 12 dặm, mà độ dài của dòng chảy tô tử đi qua nơi này cũng trùng hợp là 12 dặm, tất cả những điều này đều quyết định vận số của nhà thanh, có liên quan đến con số 12.


Trong đó điều thần kỳ nhất chính là 12 ngọn núi của núi khởi vận ứng với 12 vị hoàng đế của nhà thanh. Núi khởi vận thuộc dư mạch của núi long cương, trên núi rừng cây tươi tốt, khí thế hùng vĩ, có địa thế của một con rồng khổng lồ muốn bay lên trời, là mảnh đất long hưng của nhà thanh.

Núi khởi vận từ đầu đến cuối có tổng cộng 12 ngọn núi lớn nhỏ khác nhau, mà nhà thanh từ thái tổ nỗ nhĩ cáp xích đến hoàng đế cuối cùng của nhà thanh là phổ nghi, cũng vừa đúng 12 vị hoàng đế. 12 vị hoàng đế của nhà thanh theo thứ tự lần lượt là: Nỗ nhĩ cáp xích, hoàng thái cực, phúc lâm (thuận trị), huyền diệp (khang hy), dận chân (ung chính), hoằng lịch (càn long), vĩnh diễm (gia khánh), mân ninh (quang đạo), dịch trữ (hàm phong), tái thuần (đồng trị), tái điềm (quang tự), phổ nghi (tuyên thống).

Nhìn từ trái sang phải vào bức ảnh trên, chúng ta sẽ thấy ngọn núi thứ tư của núi khởi vận là ngọn núi dài nhất và cao nhất trong tất cả các ngọn núi, ứng với vị hoàng đế thứ tư của nhà thanh chính là khang hy đại đế, ông là vị hoàng đế cai trị đất nước trong thời gian dài nhất, trị vì 61 năm, và cũng là một vị hoàng đế nhân hậu nhất và thánh minh nhất của nhà thanh, thời kỳ trị vì của hoàng đế khang hy là thời kỳ quốc vận hưng thịnh nhất của nhà thanh.

Chúng ta nhìn tiếp vào ngọn núi thứ sáu, ngọn núi này là ngọn núi dài thứ hai và lớn thứ hai trong tất cả các ngọn núi, đối ứng với vị hoàng đế thứ sáu của nhà thanh chính là hoàng đế càn long, trùng hợp là thời gian trị vì của ông cũng dài thứ hai, trị vì 60 năm, chỉ ít hơn khang hy một năm. Từ khang hy đến càn long đã mở ra một khang càn thịnh thế hưng thịnh nhất của nhà thanh, mà hai ngọn núi đối ứng cũng là hai ngọn núi cao lớn nhất.

Chúng ta sẽ không nói chi tiết về toàn bộ 12 ngọn núi, chỉ cần nhìn qua là biết ngay. Cuối cùng hãy nhìn vào ngọn núi thứ 12, cũng tức là ngọn núi sau cùng, ngọn núi này là ngọn núi thấp nhất và nhỏ nhất trong số 12 ngọn núi của núi khởi vận, nhìn nó giống một gò đất nhỏ. Vị hoàng đế thứ 12 đối ứng với nó là hoàng đế phổ nghi của cuối nhà thanh, phổ nghi là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn nhất của nhà thanh, cũng là một hoàng đế bất đắc chí nhất, nhà thanh diệt vong trong tay của phổ nghi. Từ những điều này có thể nhìn ra được, long mạch của nhà thanh từ sớm đã quyết định vận mệnh của triều đại này rồi.

Nhìn vào long mạch của một triều đại là có thể biết trước được vận mệnh quốc gia và số phận của triều đại đó, đây có thể nói là một chuyện rất thần kỳ, nhưng đây cũng là sự thật chứ không hề giả dối.

Trong phong thủy học của trung quốc cổ xưa, trái đất là một sự sống, cũng là một thể năng lượng, khắp nơi trên địa cầu đều có mạch lạc, có long mạch, thủy mạch, và khắp nơi cũng đầy rẫy huyệt vị, gọi là địa huyệt, cũng tức là phong thủy bảo địa. Cái này hoàn toàn giống với cơ thể người. Vì vậy nói trong phong thủy học, địa cầu chính là một sự sống khổng lồ, nó có sinh mệnh, là một thể sống, và tương ứng, tương thông và ảnh hưởng qua lại với cơ thể con người, năng lượng được luân chuyển và trao đổi với cơ thể con người từng giây từng phút, con người và thiên nhiên là một cơ thể hữu cơ hoàn chỉnh. Đây là mối quan hệ giữa người và thiên nhiên trong phong thủy học, con người giống như một tế bào trên cơ thể sự sống khổng lồ của trái đất, là một thể với thiên nhiên,

Phong thủy học cho rằng, khắp nơi trên địa cầu đều có long mạch, có một số long mạch trồi lên mặt đất, hình thành sơn mạch ở khắp nơi trên bề mặt trái đất, đây là cái mà chúng ta có thể nhìn thấy được. Nhưng cũng có một số long mạch bị chìm xuống dưới lòng đất, có một số long mạch ở trong biển lớn, những long mạch này là phần mà chúng ta không nhìn thấy được. Có một năng lượng đến từ vũ trụ cao chiều lưu thông trong long mạch, năng lượng đó được gọi là “khí”, thúc đẩy sự vận chuyển của sự sống khổng lồ (trái đất), cũng thúc đẩy sự sinh trưởng và sinh mệnh tuần hoàn của vạn sự vạn vật trên mặt đất.

Mỗi một triều đại đều có long mạch của nó, lãnh thổ của một triều đại nào đó rộng lớn bao nhiêu thì long mạch của nó sẽ kéo dài ra phạm vi khu vực rộng bấy nhiêu, đế vương của triều đại đó sẽ được thống lĩnh địa bàn rộng bấy nhiêu. Khi năng lượng của long mạch cường thịnh, thì trong thời gian đế vương đó trị vì, quốc gia sẽ rất lớn mạnh và hưng thịnh, cuộc sống của bá tánh sẽ rất giàu có và no đủ. Khi năng lượng của long mạch rất yếu, trong thời gian trị vì của đế vương đó, quốc gia sẽ rất suy yếu, cuộc sống của bá tánh vô cùng khổ cực. Khi long mạch của một triều đại cạn kiệt thì triều đại đó sẽ diệt vong.

Theo truyền thuyết “lời nguyền phong thủy” Khiến nhà thanh bị diệt vong, long mạch của vương triều thanh có liên quan đến một cây thần. Vào cuối thời minh, khi sùng trinh hoàng đế đang tại vị, một đêm ngắm thiên không bỗng nhiên ông phát hiện ra ở phía liêu đông có một luồng mây tím cuồn cuộn lao tới trông giống như hàng trăm long thần đang cưỡi mây đạp gió.




Sùng trinh cảm thấy vô cùng kinh ngạc, ông ta lo sợ cổn long xuất hiện ắt ngai vàng của mình không giữ được liền vội vàng sai người mời một thầy phong thủy cao thâm ở phương nam đến để tìm cách phá vỡ long mạch ở phía đông bắc.

Khi thầy phong thủy phá xong 99 long mạch, đến long mạch thứ 100 thì đột nhiên cuồng phong nổi lên, sấm chớp đầy trời nên không có cách nào làm tiếp. Trong đám mây mù trời ông ta nhìn thấy rõ một con kim long đang quay lại nhìn bọn họ rồi bay thẳng lên không trung. Ông ta vội vã dẫn theo đám người đuổi theo để giết nhưng không thể đuổi kịp và cuối cùng thì mất dạng.

“huyền long”

“huyền long” Thấy thầy phong thủy không đuổi theo mình nữa bèn hạ xuống một cây cổ thụ nằm nghỉ ngơi đợi chân long thiên tử đến. Đúng lúc này nỗ nhĩ cáp xích bị bộ lạc khác đuổi giết nên chạy từ trên núi trường bạch xuống . Ông ta mang theo tro cốt của tổ phụ trốn men theo núi trường bạch xuống và muốn tìm một chỗ nghỉ chân.

Hôm đó, ông đi đến bên bờ sông tô tử, muốn vào một khách điếm dừng chân nhưng vì mang theo bình tro cốt nên không ai cho vào. Ông ta đành phải mang bình tro cốt của tổ phụ kẹp lên thân một cây du cổ thụ, định bụng đợi mai sẽ quay lại lấy đi tiếp và quay lại khách điếm tìm phòng trọ nghỉ ngơi.

Ngày hôm sau, nỗ nhĩ cáp xích đến chỗ cây du cổ thụ để lấy bình tro cốt nhưng không hiểu sao không thể lấy xuống được đành rút dao chặt hai cành cây ở trạc cây đi, nhưng kì lạ thay trong nháy mắt cành cây lại tự động liền lại. Ông ta cảm thấy kinh hãi tột độ. Đúng lúc này, có một lão giả bước đến trước mặt và nói: “đó là ý trời, xin hỏi hộp tro cốt trên cây có quan hệ gì với thí chủ?.” “tổ phụ ạ”! “hãy nghe lời ta, hãy táng tổ phụ thí chủ ở đây”. ‘tại sao ạ”? “ không vì sao cả, nếu tin ta hãy nghe theo lời ta, ta sẽ chỉ lối cho thí chủ con đường đi sau này, không tin ta đánh cước với thí chủ chưa đầy 20 năm sau ngài nhất định sẽ xây được lăng cung tại nơi này".

Tục ngữ có câu: “nhị sơn giáp nhất cống bối bối xuất hoàng đế”. Ngọn núi này giống như con rồng, ngọn phía nam như phượng hoàng, bình nguyên nằm ở chính giữa lại có một con sông (chính là sông tô tử), phong thủy nơi đây chính là thế long phượng giáp nhất giáp nhất cống, dự thị rằng sau này hậu bối sẽ đăng cơ hoàng đế. Lúc này, nỗ nhĩ cáp xích mới hiểu ra, hóa ra núi long cương ở phía sau chính là một long mạch, lơ lửng trên không là "Huyền long", có thể do ý trời ông ta đã vô tình đặt trúng bình tro cốt của tổ phụ vào đúng long mạch.

Năm 1598 (tức năm thứ 26 nhà minh vạn lịch), nỗ nhĩ cáp xích được tổ tiên phù hộ đã xây dựng lăng tẩm cho tổ bối ở mảnh đất bằng phẳng gần cây du đại thụ, nguyên danh là “hưng kinh lăng”, đến năm thứ 16 thuận trị (tức năm 1659) đổi thành vĩnh lăng, “thụy du”(cây may mắn) mang đầy truyền thuyết thần kỳ về sau được càn long phong cho là “thần thụ”(cây thần).

Bảo vệ long mạch

Đối với việc bảo vệ cây thần, triều nhà thanh ra hẳn luật định cây cối xung quanh vĩnh lăng trong vòng chu vi 100 dặm đều là vùng “phong thủy” Cấm, cây cối được coi là “lăng thụ”, đều được nhà thanh bảo vệ nghiêm ngặt, ai chặt lăng thụ đều bị trị tội nặng.

Nhà thanh càng ngày càng hưng thịnh, đỉnh điểm là “khang càn thịnh thế”, nhưng khi nhà thành dần dần suy yếu thì việc bảo vệ cây thần ở vĩnh lăng cũng lơ là dần. Theo sử sách, năm 1863 “thần thụ” Đã bị đại phong đánh bật gốc, một cành lớn của “thần thụ” Đã đổ và làm hỏng mái vĩnh lăng. Ở tử cấm thành, hoàng đế thuận trị biết đây là điềm xấu, để bảo vê “khí số” Cho đại thanh, ông ta liền vội vàng hạ lệnh phái hai đại thần đến đông bắc dùng gỗ để chống, đỡ cho “thần thụ”. Nhưng mọi nỗ lực đều vô ích, “thiên cân” Của cây thần cuối cùng vẫn không thể ngăn nổi ý trời nên đã đổ gãy nát hết thân.

12: Giai thoại "Trấn yểm long mạch" Của loạt địa danh nổi tiếng ở sài gòn

Người dân sài gòn ít nhiều từng nghe qua những địa điểm nổi tiếng như hồ con rùa, dinh độc lập, thuận kiều plaza… Cùng loạt giai thoại “trấn yểm long mạch”.

Mỗi địa danh đều mang giai thoại trấn yểm long mạch cùng cả một câu chuyện dài phía sau khiến người nghe phải sởn gai ốc.




Hồ con rùa


Hồ con rùa nằm ở giao lộ phạm ngọc thạch, trần cao vân, võ văn tần. Đây là một hồ nước lớn, giữa là trụ bê tông cao cắm thẳng xuống hồ nước. Theo người xưa kể lại, hồ con rùa là cổng thành khảm khuyết của thành bát quái, được xây dựng chiếu theo lệnh của vua gia long.

Sau cuộc nổi loạn của lê văn khôi năm 1833-1835, vua minh mạng cho phá thành bát quái, xây dựng thành nhỏ hơn là thành phụng hay thành gia định. Năm 1859, thực dân pháp sau khi chiếm được sài gòn đã phá hủy thành gia định. Năm năm 1878, tại vị trí hồ con rùa hiện tại được xây dựng một thác nước, sau đó bị phá vào năm 1921. Tại đây, pháp từng cho xây dựng tượng đài 3 binh sĩ bằng đồng cùng hồ nước nhỏ, sau này bị chính quyền việt nam phá hủy vào năm 1956, đổi thành công trường chiến sĩ.

Có giai thoại kể rằng, hồ con rùa được thiết kế thêm hồ phun nước hình bát giác đều và con rùa đội bia, cái trụ giữa hồ là biểu tượng của bát quái đồ, con rùa cùng chiếc đinh lớn cắm xuống dưới để trấn yểm đuôi rồng.

Lúc bấy giờ, tổng thống nguyễn văn thiệu khá cuồng tín. Sau khi dọn về dinh độc lập đã mời một thầy địa lý ở hồng kông về xem. Thầy khen dinh độc lập xây ở vùng đất long mạch rất tốt. Đầu rồng tương ứng với vị trí của dinh nhưng đất có thịnh hay không là do đuôi rồng nằm cách đó 1km. Nếu đuôi rồng vùng vẫy sẽ khiến sự nghiệp không bền nên phải tìm cách trấn áp.

Do đó, vợ chồng tổng thống nguyễn văn thiệu cho xây hồ theo hình bát quái để trấn yểm đuôi rồng. Hồ được xây theo 4 đường đi bộ xoắn ốc hướng về trung tâm, hình tượng con rùa đội bia đá làm bằng hợp kim. Giữa hồ là cột cao lên trên hình bông hoa xòe, đóng vai trò là đinh lớn ghim xuống giữa hồ để yểm đuôi rồng. Sau này, tấm bia và con rùa bị phá hủy trong một vụ nổ bom năm 1798.

Có giai thoại khác kể rằng, hồ con rùa gắn liền với nguồn gốc xây dựng dinh độc lập. Dinh này được thiết kế bởi kiến trúc sư ngô viết thụ, trong đó núi giả trong thảo cầm viên làm bình phong, sông thị nghè làm lưu thủy. Sau khi biết chuyện, người pháp đã xây dựng nhà thờ đức bà bên phải dinh để phá chữ vương, xây thêm hồ con rùa để phun nước lên phá thủy.

Dinh độc lập

Dinh độc lập vốn nằm ở vị trí đầu rồng nên còn được gọi là phủ đầu rồng. Người xưa kháo nhau rằng, dinh này nằm trên thế đất quá hung hãn, những ai làm chính trị tại đây vận khí sẽ giảm, công việc không tốt. Do đó, tổng thống nguyễn văn thiệu phải vội vàng mời thầy địa lý về xây dựng hồ con rùa để trấn yểm.

Từ thời pháp thuộc, dinh độc lập được xây dựng với tên ban đầu là palais norodom, sau được đổi tên thành dinh độc lập. Có nhiều dẫn chứng về việc những người sống tại dinh sẽ không sống hay giữ chức quyền được lâu. Tiêu biểu như tướng paul ely khi làm cao ủy pháp bị thua tan tác trong trận điện biên phủ, phải quay về nước. Sau này ngô đình diệm làm tổng thống cũng xém chết, được vài năm bị đảo chính rồi mất mạng.

Là người thiết kế, kiến trúc sư ngô viết thụ rất coi trọng công trình này, chăm chút kỹ lưỡng từ nội thất đến tiền điện, kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật và kiến trúc hiện đại. Ông đã cố tình thiết kế dinh với nhiều tầng lầu ngang, dài giống như chữ vương trong hán tự, thêm một tầng thượng nhỏ giữa tầng cuối một dấu phẩy trên đầu chữ “vương” Là thành chữ “chủ”.
Khám chí hoà

Khám chí hòa hay còn gọi là nhà giam chí hòa rộng khoảng 7ha, được pháp xây dựng năm 1943. Kiến trúc của nó khá đặc biệt nên gọi đây là nơi trấn yểm sài gòn. Trại giam này được xây dựng và thiết kế bởi một kiến trúc sư người nhật, có lối kiến trúc độc đáo, vừa có nét đặc trưng cơ bản của phong cách thiết kế pháp lại vừa thể hiện âm dương ngũ hành của phương đông.

Nhà giam có 3 tầng, được thiết kế 8 góc cạnh đều nhau như hình bát quái. Được biết, 8 góc này tượng trưng cho 8 quẻ lần lượt là càn, khôn, chấn, tốn cẩn, khảm, đoài, ly. Cả nhà giam chỉ có duy nhất một cửa vào, gọi là cửa tử.

Nhà giam được bịt kín bên ngoài, bên trong toàn song sắt. Đi qua nhà giam là hệ thống đường hầm, lối di chuyển được xây theo tử vi đầu số của phong thủy. Khi bước vào, con người sẽ cảm thấy lạnh lẽo, sợ hãi vì mất phương hướng.

Bên trong khám chí hòa có 8 khu hình tam giác chụm vào nhau tới đài phun nước ở giữa. Nếu nhìn từ trên cao, đài phun nước chẳng khác nào một thanh gươm ghim thẳng xuống đất. Nếu thanh gươm bị nhổ lên thì bát quái đồ sẽ bị phá vỡ.

Được biết, trong suốt lịch sử những phạm nhân giam giữ tại khám chí hòa, chỉ duy nhất 2 vụ vượt ngục thành công.

13: Câu chuyện về lòng tốt được báo ơn và việc nối long mạch để dòng họ tiếp tục phát phúc

Ngoài những nguyên nhân về cả dương cơ và âm phần thì việc phát phúc của một dòng tộc còn phụ thuộc nhiều vào đức lớn của tổ tiên và họ nguyễn làng viềng cũng vậy.

Cho đến ngày nay, dòng họ vẫn lưu truyền nhiều câu chuyện thú vị xung quanh sự kiện này.

Từ câu chuyện người tàu báo ơn

sau nhiều lần hỏi thăm, cuối cùng chúng tôi cũng tìm được vào nhà cụ nguyễn đình quát (78 tuổi), hậu duệ đời thứ 14 dòng họ nguyễn làng viềng để tìm hiểu rõ thêm sự việc. Cụ quát kể cho chúng tôi nghe câu chuyện rất thú vị về người tàu trả ơn. Cụ phúc sơn vốn là tổ họ nguyễn tại làng viềng, nhà nghèo nhưng lại có tinh thần phóng khoáng, thường xuyên làm việc thiện giúp đời. Sau này cụ rời làng viềng đi mở hàng nước tại làng đông lâu (nay là đồng thôn, huyện yên phong, bắc ninh) để sinh sống.

Tục truyền rằng vào một đêm mưa to gió lớn, cây đa đại thụ bên cạnh quán nước bị gió giật đổ bật gốc. Sớm hôm sau cụ ra xem thì nhìn thấy dưới gốc đa bị bật gốc đó lộ ra ba chĩnh vàng, thấy vậy cụ bèn đưa vào nhà cất giữ. Hai-ba năm sau, có một người trung quốc đến gốc đa đó ra chiều tìm kiếm một thứ gì mà mãi không thấy.

Người này hỏi những người sống ở khu vực lân cận thì có nghe loáng thoáng câu chuyện cụ phúc sơn bắt được vàng nên tìm đến nhà tự giới thiệu và đưa ra một bản sấm cũ, đồng thời nói rằng: “tiền nhân chúng tôi có để lại một ít của cải cho con cháu, nay vì nghèo túng nên không quản ngàn dặm đường xa đến để đào lên, ngờ đâu đã bị người khác lấy mất”. Người này nói xong rồi khóc lớn.

Sau khi hỏi han kỹ càng, cụ phúc sơn bèn nói: “số vàng này chính là tôi bắt được, nhưng cứ để nguyên cất đi, không hề lấy một chút nào ra tiêu dùng. Vậy số vàng này vốn là di sản của nhà ông, thì tôi xin hoàn lại ông tất cả”. Người khách thấy vậy nói: “đúng là số vàng kia của nhà tôi, nhưng trời đã có ý cho ngài, xin ngài giữ lấy mà dùng, tôi chỉ xin một chút đủ dùng trên đường trở lại quê quán mà thôi”.

Cụ phúc sơn không đồng ý nói: “nay vật về chủ cũ là lẽ đương nhiên” Và kiên quyết trả lại. Người khách thấy cụ xuất phát từ lòng chân thành nên biếu cụ mười lạng, còn đâu xin mang về.

Sau khi về nước, người khách đem việc ấy kể cho mọi người cùng nghe. Một thầy địa lý nổi tiếng nghe vậy bèn nói rằng: “không ngờ người nước nam lại tốt bụng đến vậy, nay ta già rồi, giá ta còn trẻ thế nào ta cũng sang an nam tìm cho nhà ấy một ngôi đất tốt để đền ơn”.

Người khách thấy vậy khẩn khoản nhờ thầy giúp. Thầy địa lý nói: “ta có hai học trò có thể làm được việc này”, nói đoạn quay bảo hai người học trò: “con người ấy vốn có âm đức, trời ắt cho được nhiều điều hay. Ta nay tuổi già không đi được, hai người đi giúp ta một chuyến”. Hai người học trò đều là những thầy địa lý nổi tiếng vui vẻ nhận lời.

Khi người khách tàu cùng hai người học trò đó sang an nam, tìm đến nơi cụ phúc sơn ở để trả ơn thì cụ đã mất trước đó mấy năm rồi. Gia đình cũng chuyển về làng vĩnh kiều (làng viềng) sinh sống. Người khách sắm một lễ phúng đem đến nhà cụ phúc sơn ở làng viềng để cúng tế. Cúng xong ra đi, không biết đi đâu.

Hơn hai tháng sau, người khách lại bảo với phu nhân cụ phúc sơn rằng: “ngày xưa tôi chịu ân sâu mà chưa báo được đức, nay tìm được minh sư tìm được ngôi đất quý để khỏi phụ ân đức người. Nay hai thầy địa lý tìm được hai huyệt tốt, một ngôi phát đế vương nhưng chỉ một đời, một ngôi phát bảy đời làm rể vua, tùy người lựa chọn”. Cụ bà thấy vậy mong muốn có một huyệt để cho con cháu phát đời khoa cử. Không hiểu thực hư ra sao, quả đúng từ đó về sau, con cháu họ nguyễn làng viềng nối nhau đỗ đại khoa và làm quan to trong triều.

Đến chuyện hàn long mạch

con cháu dòng họ nguyễn làng viềng nối nhau đỗ đại khoa với nhiều người giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình. Cứ như vậy cho đến hết đời thứ 4 thì không còn người đỗ đại khoa nữa và sự hưng thịnh của dòng họ có chiều hướng đi xuống. Theo gia phả còn ghi chép lại được thì đời thứ 5 của dòng họ chỉ có duy nhất một người đỗ trung khoa là cụ phả uyên, đỗ nho sinh trúng thức, làm quan tới chức tri phủ mà thôi.


Tuy nhiên cụ phả uyên lại có may mắn được hộ tống một đoàn ngoại giao của nước ta sang sứ bên tàu. Khi sang sứ, cụ phả uyên có gặp một thầy địa lý tàu nổi tiếng xin ý kiến về việc phục táng tổ tiên để con cháu tiếp tục được hưởng phúc ấm và có thêm nhiều người đỗ đạt. Thầy địa lý thấy thế liền nói: “lấy cùng dòng khí huyết phụ táng bằng nối cánh tay vào, cái cũ đã tiêu nát, sửa thành cái mới, sao lại không nên làm”.

Khi về việt nam, cụ phả uyên liền đem hài cốt của cụ tổ nguyễn văn huy táng lại theo chỉ dẫn của thầy địa lý tàu đã mách nước. Không hiểu sao ngay đời con cụ phả uyên là cụ nguyễn danh nho đỗ tiến sĩ khoa canh tuất 1670, thời lê huyền tông. Đặc biệt hơn là có cụ nguyễn nhân nguyên đỗ cử nhân dưới thời hậu lê, làm quan tới chức hộ bộ lang trung. Cụ có 7 người con trong đó có 3 người đỗ tiến sĩ là nguyễn quốc ích, nguyễn đức đôn, nguyễn công viên.

Điều đặc biệt là dù tám cha con không đỗ hết tiến sĩ, nhưng tất cả đều làm quan to cho một triều. Đây quả là một thành tích không phải gia đình khoa bảng nào cũng có thể thực hiện được. Cũng từ đó con cháu họ nguyễn làng viềng đều có người đỗ đạt, làm quan. Tuy nhiên số người đỗ đại khoa và giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình không nhiều như 4 đời đầu của dòng họ.

Đến đây chúng tôi có hỏi cụ nguyễn đình quát về thực hư chuyện hàn long mạch trong gia phả chép như thế nào, cụ quát cho biết: “gia phả các cụ truyền lại cho còn cháu như thế nào thì chúng tôi chỉ biết có vậy. Còn thực hư ra sao tôi cũng không được rõ. Tuy nhiên có một thực tế là mấy đời đầu, các cụ đều giữ những chức vụ rất to trong triều mà con cháu về sau rất ít người vươn tới”.

Không thỏa mãn với câu trả lời, chúng tôi đã tìm gặp chuyên gia phong thủy phạm cương và nhận được câu trả lời thấu đáo hơn. Chuyên gia phạm cương cho biết: “phong thủy là khoa nghiên cứu về môi trường sống với con người như hướng nắng, hướng gió, tới mạch khí, mạch nước, cấu trúc sông núi... Nên khi một trong những yếu tố này thay đổi sẽ ảnh hưởng ít nhiều cục diện phong thủy của cả một khu vực. Trong phong thủy dương cơ (liên quan đến nhà cửa) và âm phần (liên quan tới mồ mả) có quan hệ rất mật thiết với nhau. Riêng phong thủy âm phần ảnh hưởng sâu đến con cháu của dòng họ đó. Mỗi khi long mạch bị tổn thương do xây dựng đào xới… Thì cần thiết phải hàn long mạch.

Đối với chuyện hàn long mạch như truyền thuyết dòng họ nguyễn làng viềng thì chuyên gia phạm cương nhận xét: “hàn long mạch là chuyện có thực, tuy nhiên áp vào trường hợp này thì rất khó nói do chưa có điều kiện tìm hiểu thực tế cũng như lịch sử dòng họ nên tất cả chỉ là võ đoán mà thôi... Thông thường thì việc hàn lại long mạch có xảy ra thì khu đất khó vượng khí như lúc đầu (tỉ lệ này chiếm khoảng 90%). Đối với 10% còn lại là thì việc hàn long mạch lại là chuyện tốt hơn ban đầu, điều này tùy thuộc cấu trúc khu đất đó".


14: Những câu chuyện thú vị về thuật phong thủy


Lưu bá ôn phá long mạch trừ hậu họa cho họ chu








Người ta nói rằng, bất cứ nơi đâu ở trung quốc có lưu truyền những truyền thuyết về lưu bá ôn thì ở đó ắt có truyền thuyết về phong thủy. Chuyện kể rằng, sau khi lên ngôi hoàng đế, cũng giống như những vị hoàng đế khác, muốn cho giang sơn do mình gây dựng có thể truyền cho con cháu ngàn vạn đời sau, chu nguyên chương bèn phái lưu bá ôn đi khắp nơi trong cả nước xem phong thủy, tìm mọi cách ngăn chặn sự xuất hiện những người “mệnh lớn”, có thể cướp đoạt thiên hạ của nhà họ chu. Lưu bá ôn nhận lệnh của chu nguyên chương, lưng mang thần kiếm đi khắp nam bắc. Một khi nhìn thấy long mạch lập tức vung kiếm phá bỏ, trừ hậu họa cho hoàng thất họ chu.

Một lần, lưu bá ôn đi tới giang trang ở chân núi thạch khanh, bỗng nhiên thấy từ dưới đất có một con trâu bằng đá đang chạy về phía giang trang. Lưu bá ôn liền bấm quẻ rồi chờ tối hôm đó xem tinh tượng thì dự đoán trong giang trang nhất định sẽ sinh ra một người có “mệnh lớn”, tương lai có thể tranh đoạt giang sơn của triều minh. Lưu bá ôn vội thi triển phép thuật, dùng bảo kiếm chặt con trâu đá làm ba khúc, phá đi phong thủy của giang trang. Một khi phong thủy đã bị phá, người “mệnh lớn” Sẽ không thể xuất hiện được nữa. Lưu bá ôn còn sợ con trâu đá sau khi bị giết sẽ hồi sinh nên lại dùng pháp thuật đem ba khúc của con trâu vừa bị chặt chôn ở ba nơi khác nhau.

Không chỉ được giao nhiệm vụ phá thế phong thủy, đoạn long mạch để ngăn chặn việc xuất hiện thiên tử, tranh chấp thiên hạ với họ chu, lưu bá ôn còn được chu nguyên chương tin tưởng giao cho nhiệm vụ cải tạo phong thủy để đem lại điều lợi cho sự cai trị của triều minh.

Lưu bá ôn sau khi giúp chu nguyên chương lập nên nhà minh thì xin cáo quan về quê ở ẩn, nhằm tránh những đòn thù của chu nguyên chương lẫn quan thừa tướng hồ duy dung. Để hồ duy dung lẫn chu nguyên chương không biết được hành tung của mình, lưu bá ôn bèn cải trang làm đạo sĩ, ngao du thiên hạ, trở thành một đại sư phong thủy thần bí trong giang hồ. Ông đã cùng tướng quan bành oánh ngọc tới cửu đàm núi la phù để thực hiện lời hẹn năm xưa. Chả là khi lưu bá ôn dẫn quân nam chinh đã từng qua cửu đàm, nhận thấy nơi đây địa thế không tệ, tuy nhiên, nhân dân lại nghèo khó. Xem xét một hồi, lưu bá ôn phát hiện ra rằng, mặc dù địa thế nơi đây tốt nhưng người dân vẫn nghèo là do nơi đây xuất hiện bố cục trấn phong thủy. Nhưng khi đó do không dừng lại lâu, lưu bá ôn đã hứa với người dân ở cửu đàm đợi khi đất nước thống nhất sẽ quay trở lại đây giúp họ thay đổi bố cục trấn phong thủy kia.

Phần lưng của cửu đàm dựa vào núi la phù, mỗi năm lũ từ trên núi la phù đều đổ xuống cửu đàm. Đây chính là bố cục đã trấn áp phong thủy của cửu đàm. Vì vậy, lưu bá ôn cho rằng, chỉ cần trị được lũ từ trên núi đổ xuống khu vực cửu đàm thì người dân có thể tránh được tai nạn hằng năm, từ đó có thể an cư lạc nghiệp. Lưu bá ôn đã cùng người dân cửu đàm nắn dòng chảy của con suối thành theo hình chữ chi để giảm sức chảy của dòng nước khi có lũ về, nhờ vậy, thay đổi luôn cả bố cục phong thủy bị trấn áp của cửu đàm. Từ đó về sau, người dân cửu đàm không còn phải chịu lũ quét hàng năm nữa.

Ẩn ý dụng phong thủy trong quyết định cuối đời của võ tắc thiên

Nhiều người tin rằng, ngay cả khi đã chết, nữ hoàng đế võ tắc thiên vẫn có những ảnh hưởng rất lớn tới vận mệnh quốc gia. Chuyện rằng, khi lâm chung, võ hậu yêu cầu lý hiển dùng thụy hiệu cho bà là hoàng hậu chứ không phải hoàng đế, do vậy bà không có miếu hiệu như những vị hoàng đế khác. Võ hậu cũng yêu cầu chôn mình ở càn lăng cùng với chồng mình là đường cao tông lý trị, đồng thời dựng trên mộ bà một tấm bia trống (gọi là vô tự bia). Cho tới nay, người ta vẫn chưa thể lý giải vì sao một người phụ nữ đầy tham vọng như võ tắc thiên - người đã dám phá bỏ cả một vương triều lừng lẫy, tự lập nên vương triều của dòng họ mình - đến phút cuối cùng lại quay về thân phận một người vợ, yêu cầu hợp táng cùng chồng.

Tuy nhiên, các nhà phong thủy thì tin rằng, một trong những nguyên nhân khiến võ tắc thiên lựa chọn càn lăng làm nơi chôn cất của mình chính là vì địa thế cực kỳ đắc địa của khu lăng mộ này. Càn lăng được xây dựng trên đỉnh núi lương sơn, nằm cách huyện thành thiên càn 6km về phía bắc. Nơi đây cách tây an - kinh đô thời đường - khoảng 160 dặm, tạo thành thế hô ứng với các dãy núi cửu tông, kim túc, ta nga, nghiêu sơn… Khác với vị trí chiêu lăng do chính lý thế dân - ông vua nổi tiếng triều đường tự lựa chọn, người ta nói rằng, vị trí của càn lăng được lựa chọn một cách cực kỳ chuyên nghiệp.

Người lựa chọn vị trí xây dựng càn lăng chính là thái sử lệnh lý thuần phong - vị quan chịu trách nhiệm về âm dương và thiên văn của triều đại nhà đường. Sử chép, họ lý là một trong những nhà thiên văn và số học cổ đại có tiếng của trung quốc. Cùng thời với lý thuần phong lúc bấy giờ còn có một người khác tài danh không kém, gọi là viên thiên canh. Viên chính là người đã cùng lý thế dân lựa chọn vị trí xây dựng chiêu lăng.

Do lương sơn - nơi xây dựng càn lăng - có địa thế rất giống với bộ ngực của người phụ nữ nên người dân địa phương nơi đây còn gọi núi lương sơn là nãi đầu sơn. Ngọn núi này nhìn gần thì rất kỳ vĩ nhưng nhìn xa lại rất thấp. Viên thiên canh cho rằng, nơi đây âm khí nặng hơn, vì vậy nếu như không tính toán cẩn thận thì long mạch nhà họ lý sẽ bị một người phụ nữ làm cho tổn hại. Lý do mà viên thiên canh đưa ra dường như rất hợp lý. Ngọn lương sơn nằm ở phía tây của núi cửu tông, trong khi đó, long mạch của nhà đường thì nằm ở phía đông cửu tông. Vì vậy, viên cho rằng, chiêu lăng - nơi chôn cất lý thế dân - chính là phần đầu của long mạch triều đường. Theo quan niệm truyền thống về phong thủy thì vị trí xây dựng lăng mộ cho lý trị phải nằm dưới phần đầu rồng này. Như vậy, vị trí mộ lý tưởng nhất phải thuộc các dãy núi kim túc, ta nga, nghiêu sơn…

Tuy nhiên, nay lại có một người phụ nữ ngồi ở trên đầu của những người đàn ông dòng họ lý. Hơn nữa, đại thế phong thủy của lương sơn lại không hô ứng với phong thủy của chiêu lăng vốn đã được lý thế dân lựa chọn. Sự không hô ứng này khiến vương khí bị đứt đoạn, e là chỉ sau ba đời sẽ bị cản trở. Trưởng tôn vô kỵ và lý thuần phong đều nói đây là mảnh đất tốt, ngàn năm có một, trong khi đó viên thiên canh thì lại khẳng định rằng, nơi này không thích hợp. Đứng trước hai ý kiến hoàn toàn trái ngược, lý trị lúc bấy giờ cũng không biết quyết định ra sao. Khi đó, võ tắc thiên mới là chiêu nghi, nghe được chuyện này mừng lắm. Viên thiên canh từng dự đoán rằng, triều đại nhà đường sẽ bị một người phụ nữ họ võ xâm phạm. Lý thế dân cũng vì lý do này mà giết không ít người họ võ. Hơn nữa, khi trước, họ viên khi xem tướng mạo của võ tắc thiên đã nói rằng: “nếu như không phải là nữ giới thì nhất định sẽ là chủ thiên hạ”. Như vậy, địa thế phong thủy của lương sơn chẳng phải là ứng với những gì viên thiên canh đã dự đoán hay sao? Nghĩ vậy, võ tắc thiên đã tìm mọi cách khuyên lý trị không nên do dự, nghe theo lời của cậu là trưởng tôn vô kỵ. Lý trị vốn là người nhu nhược nên chẳng mấy chốc đã bị võ tắc thiên thuyết phục, việc lựa chọn vị trí xây dựng càn lăng được quyết định. Viên thiên canh sau khi biết chuyện đã thở dài mà than rằng: “người thay nhà đường không ai khác chính là võ chiêu nghi”. Lời nói của viên sau này quả nhiên ứng nghiệm.

Tới tháng 9 năm 690, võ tắc thiên chính thức lên ngôi hoàng đế, trở thành nữ hoàng duy nhất trong lịch sử chế độ phong kiến trung quốc. Các nhà phong thủy cho rằng, chính địa thế phong thủy của càn lăng đã giúp võ tắc thiên làm nên sự nghiệp lẫy lừng như vậy và chính vì thế nên đến cuối đời, võ tắc thiên đã quyết định được chôn cất tại càn lăng chứ không phải chỉ vì muốn hợp táng với đường cao tông lý trị.

Có rất nhiều bí ẩn xung quanh mộ của võ tắc thiên, như những bức tượng không đầu; việc nasa nhìn thấy khu lăng mộ họ võ từ vũ trụ; bia mộ không khắc chữ cùng với những bí ẩn về vật liệu xây dựng. Bọn trộm mộ thường nhòm ngó đào bới của cải của những lăng mộ; những triều đại mới nổi lên, muốn trả thù triệt “long mạch” Của triều đại cũ; các nhà khảo cổ khai quật để nghiên cứu… Thế nhưng lăng mộ của nữ hoàng đế võ tắc thiên thì người ta đào không nổi.

Lý quang diệu xây đường tàu điện ngầm trên lưng rồng

Từ khi ông lý quang diệu lên làm thủ tướng, đất nước singapore bắt đầu có những bước phát triển rất mạnh liên quan tới các chính sách quản lý đất nước. Nhu cầu xây dựng đường tàu điện ngầm ngày một cấp thiết. Nhà thầu xây dựng được chọn là một tập đoàn xây dựng quốc tế có năng lực tài chính và kỹ thuật vào loại siêu mạnh. Nhưng lạ thay, công trình này không cách nào có thể thi công được qua một khu vực có điều kiện địa chất phức tạp. Các kỹ thuật hiện đại nhất đã được đưa ra áp dụng nhưng vẫn thất bại. Do việc lái tuyến thi công sang hướng khác không thực hiện được trong khi việc xây dựng được yêu cầu thực hiện sớm, tình hình được báo cáo lên chính phủ.

Ông lý quang diệu vốn là một nhà chính trị tài ba, nhưng cũng rất coi trọng vấn đề phong thủy. Ông đã cho mời một thầy phong thủy người gốc hoa từ mỹ về để nhờ tư vấn. Sau khi xem xét thầy phong thủy phán: Khu vực thi công có điều kiện địa chất phức tạp, đó chính là cái lưng của một con rồng lớn. Khi con rồng nằm yên thì thi công được, nhưng khi nó cựa mình thì công trình lại đổ vỡ. Vì vậy mà công tác thi công ở đây không thể tiến triển được cho dù có áp dụng các kiểu kỹ thuật hiện đại. Muốn thi công được và đảm bảo an toàn cho công trình trong quá trình sử dụng thì phải dùng biện pháp trấn yểm sao cho con rồng ấy chịu nằm yên không cựa quậy nữa. Và biện pháp trấn yểm chỉ có thể là: Toàn dân singapore khi đi ra ngoài đường đều phải đeo hình bát quái trên người. Biện pháp này mới nghe tưởng là đơn giản nhưng làm sao thuyết phục được dân chúng chịu làm việc kỳ dị đó? Thủ tướng lý quang diệu cùng nội các luận bàn rất nhiều mà vẫn chưa tìm được cách nào để thuyết phục dân chúng. Thấy chồng lo lắng buồn phiền về việc đó, vợ của thủ tướng lý quang diệu hiến một kế: “cho đúc loại tiền xu 1$ có hình bát quái cho lưu hành thay thế đồng 1$ hiện tại”. Toàn dân singapore, từ kẻ nghèo nhất đến người giàu có khi đi ra đường cũng đều có ít nhất 1$ trong người. Quả nhiên khi đồng 1$ có hình bát quái được lưu hành, sau đó một thời gian thì tuyến đường ngầm cũng được xây dựng xong và sử dụng ổn định cho đến ngày nay. Và ở singapore tất cả các đồng tiền xu khác đều có hình tròn, nhưng riêng đồng 1$ thì lại có hình bát quái.

Từ sau vụ việc xây dựng tuyến tàu điện ngầm đó, chính phủ singapore và cả người dân rất chú trọng vấn đề phong thủy trong xây dựng.

15: Cuộc chiến phong thủy sòng bạc ma cao

Nếu như người hồng kông nói rằng phần lớn họ đều là người làm thuê cho tỷ phú lý gia thành thì ở ma cao, chỉ cần một cái giậm chân quá mạnh của hà hồng sân, toàn bộ ma cao sẽ run rẩy. Đây hoàn toàn không phải là một câu nói phóng đại mà là sự thực. Cho tới những năm đầu thế kỷ 21 này, tới 70% nguồn thuế của chính phủ ma cao thu được đều đến từ các sòng bạc của “vua cờ bạc” Ma cao hà hồng sân.




Trong thế giới cờ bạc của hà hồng sân thì nơi được coi là “nền móng” Trung tâm không phải nơi nào khác mà chính là khách sạn lisboa. Người ma cao nói rằng, bên cạnh nhà thờ sao paolo thì lisboa chính là một biểu tượng của ma cao, thậm chí là một thứ tô tem của ngành kinh doanh cờ bạc và nền kinh tế của ma cao.





Khách sạn lisboa được xây dựng từ năm 1965, tới năm 1970 chính thức mở cửa hoạt động. Theo thống kê, số tiền đầu tư cho khách sạn này lên tới 60 tỷ đô la hồng kông. Tuy nhiên, điều đáng nói không phải là số tiền người ta bỏ ra xây dựng khách sạn này. Nhiều người thắc mắc rằng, vì sao gần 50 năm đã trôi qua nhưng khách sạn lisboa vẫn còn là trung tâm của thế giới cờ bạc ma cao, thậm chí càng làm ăn càng phát đạt.

Các nhà phong thủy thì cho rằng, sở dĩ khách sạn lisboa có thể trở thành trung tâm của vương quốc cờ bạc ma cao là bởi thiết kế xây dựng của nó ẩn chứa rất nhiều bí mật phong thủy. Sự thể như thế nào thì người dân không rõ, tuy nhiên có một điều chắc chắn rằng những người dân địa phương ở ma cao sẽ không bao giờ vào khách sạn lisboa để đánh bạc, bởi lẽ họ biết rằng họ sẽ không bao giờ thắng lại được lợi thế phong thủy của khách sạn này.

Vậy bí ẩn phong thủy của khách sạn lisboa nằm ở đâu? Các chuyên gia phong thủy cho rằng, nhìn bề ngoài, khách sạn lisboa trông giống như một chiếc lồng chim khổng lồ, ngụ ý rằng, đã vào là không có đường ra. Đặc biệt là vào buổi tối, khi hệ thống đèn chiếu sáng trong khách sạn được bật lên thì dường như mỗi vị khách vào chơi bạc đều trở thành một chú chim trong chiếc lồng rực rỡ này. Tuy nhiên, đó chưa phải là điểm hung hiểm nhất trong kết cấu phong thủy của khách sạn lisboa.

Theo các nhà phong thủy, bố cục phong thủy hung hiểm nhất của khách sạn lisboa chính là cửa lớn. Một mặt, chiếc cửa này trông giống như miệng một con sử tử, một mặt còn lại thì trông giống như miệng hổ. Vì vậy, những vị khách tới chơi bạc chẳng khác gì sa chân vào miệng sư tử và hổ.

Chưa hết, sư tử được mệnh danh là vua của các loài thú, trong phong thủy học, nó có tác dụng “hút tiền tài” Cho chủ nhân. Còn hổ là loài rất hung dữ, nó có tác dụng bảo vệ và giữ lại tài sản của chủ nhân ngôi nhà. Đây có lẽ là lý do hằng năm vẫn có hàng ngàn người mang rất nhiều tiền tới khách sạn lisboa để rồi ra về với hai bàn tay trắng.

Ngoài ra, trên đỉnh của khách sạn lisboa còn có một vật hình tròn, xung quanh là những lưỡi dao sắc nhọn tủa ra xung quanh. Nhiều người cho rằng thiết kế này chính là ngụ ý cho “vạn tiễn xuyên tâm”.

Điều này chính là lý do giải thích cho việc mặc dù đã trải qua thời gian gần nửa thế kỷ, lisboa vẫn nghiễm nhiên là trung tâm của thế giới cờ bạc ma cao. Một chi tiết nữa mà ít người để ý đến trong thiết kế của khách sạn lisboa chính là một năm 365 ngày thì cả 365 ngày người ta thấy khách sạn lisboa sửa chữa. Nếu không phải là sửa nhà vệ sinh thì cũng là sửa cầu thang, thay rèm, sửa bóng điện…

Một khách sạn lớn như lisboa, một trung tâm cờ bạc, nơi tập trung của những tay chơi giàu có bậc nhất thế giới vì sao suốt ngày phải sửa chữa những thứ nhỏ nhặt như vậy? Một nhà phong thủy của hồng kông cho rằng, việc khách sạn lisboa liên tục được sửa chữa là có dụng ý của nó. Bởi lẽ, trong tiếng quảng đông (tiếng nói của vùng quảng đông, hồng kông,…) từ “sửa chữa” Đồng âm với từ “thu hoạch”. Chính vì vậy, việc ngày nào cũng sửa chữa cũng là một dụng ý để tạo nên bố cục phong thủy may mắn cho khách sạn này. Có thể thấy là đến một chi tiết rất nhỏ như vậy mà hà hồng sân, ông chủ của khách sạn này, cũng không bỏ qua thì những vị khách tới đây đánh bạc đừng bao giờ nghĩ tới việc mang tiền ra khỏi lisboa.

Nghề kinh doanh sòng bạc ở ma cao đã trải qua hàng chục năm phát triển, do vậy không gian tồn tại đã gần tới mức bão hòa. Vì thế, các sòng bạc hiện có của ma cao liên tục cạnh tranh với nhau một cách kịch liệt. Lại thêm, trung quốc thực hiện rất chặt việc tham gia các sòng bạc, vì vậy họ thường xuyên hạn chế lượng du khách tự do vào ma cao.

Điều này khiến cho ngành kinh doanh cờ bạc ở mao cao ngày càng trượt dốc. Hiện tại, việc cạnh tranh chủ yếu giữa các sòng bạc chính là lôi kéo được càng nhiều khách hiện có càng tốt chứ không phải là phát triển những khách mới.

Việc cạnh tranh tự do giữa các sòng bạc bắt đầu được thực hiện từ năm 2002. Lúc bấy giờ, ông vua sòng bạc của mao cao là hà hồng sân công khai bày tỏ sự phản đối đối với chính sách này. Đó cũng là điều đương nhiên, bởi lẽ nếu như trước kia, một mình hà hồng sân độc chiếm toàn bộ thế giới cờ bạc ma cao thì giờ đây, rất nhiều sòng bạc của hà hồng sân không thể hoạt động được. Chưa hết, khi chính sách tự do cạnh tranh bắt đầu được thực hiện cũng là lúc casino ma cao do mỹ đầu tư bắt đầu gây ảnh hưởng tới việc làm ăn của hà hồng sân.

Cuộc chiến đấu bằng lời qua tiếng lại của các ông vua sòng bạc đông – tây cũng bắt đầu nổ ra. Thậm chí, ceo của tập đoàn las vegas sands của mỹ không hề khách khí khi tuyên bố rằng: “nếu như tôi là hà hồng sân thì việc đầu tiên tôi làm sẽ là bảo vệ thật tốt công việc làm ăn của mình”. Thực tế thì người mỹ cũng hiểu câu “nhập gia phải tùy tục”, vì vậy, ông chủ của tập đoàn las vegas sands, brad stone cũng đã tìm đến một đại sư về phong thủy.

Thầy phong thủy này đã đưa ra các giải pháp thay đổi bố cục phong thủy của sòng bạc las vegas sands đặt tại ma cao nhằm cạnh tranh về mặt phong thủy với khách sạn lisboa của hà hồng sân.

Thay đổi lớn nhất của sòng bạc las vegas sands chính là biến toàn bộ hình dáng bề ngoài của tòa nhà trở thành hình tròn giống như một chiếc tổ ong nhằm bảo vệ “mật ong” Ở bên trong. Ai cũng biết loài ong sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ tổ của mình và không phải dễ dàng gì lấy được mật của chúng. Việc thay đổi hình dáng ngôi nhà của sòng bạc las vegas sands do vậy dù không thể thắng lại bố cục phong thủy của lisboa cũng đủ để bảo vệ nó trước sự hung hãn của sòng bạc của hà hồng sân.

Một đối thủ lợi hại khác của lisboa chính là sòng bạc vĩnh lợi (wynn). Để phá vỡ bố cục phong thủy của lisboa, chủ nhân của sòng bạc này đã mời rất nhiều bậc “cao nhân” Về phong thủy tới để “chỉ điểm” Thiết kế bố cục “một tay che trời” Cho vĩnh lợi. Đầu tiên, vĩnh lợi lựa chọn vị trí xây dựng đúng ở huyệt thanh long của lisboa. Sau đó, hình dáng bề ngoài của sòng bạc vĩnh lợi được thiết kế giống như một bàn tay với ngụ ý sòng bạc lisboa chỉ như một trò chơi trên lòng bàn tay của vĩnh lợi mà thôi.


Trước sự tấn công về mặt phong thủy của các đối thủ cạnh tranh, hà hồng sân cũng nhanh chóng tìm đến những đại sư phong thủy để nhờ họ tìm cách hóa giải. Kết quả, hà hồng sân quyết định bỏ ra 120 triệu đô la hồng kông mua một sân bóng nhở ở ngay bên cạnh lisboa rồi xây dựng grand lisboa, biến khách sạn lisboa trước đây trở thành huyệt thanh long của grand lisboa, tạo ra thế cân bằng với sòng bạc vĩnh lợi, giúp cho tiền bạc vẫn nằm trong tay của lisboa.

Điều đặc biệt trong thiết kế của tòa grand lisboa chính toàn bộ bề ngoài của tòa nhà chính trông giống như một viên trân châu đồng thời cũng giống như một cái ấn tướng. Theo các nhà phong thủy, hình dáng này khiến bố cục tòa nhà đã hàm ý “viên ngọc trên tay”. Điều này sẽ giúp khách sạn lisboa luôn giữ được sự may mắn, đồng thời khắc phục được những khiếm khuyết trong địa thế phong thủy của khách sạn này khi bị bố cục phong thủy của vĩnh lợi ảnh hưởng.

Không biết cuộc đấu phong thủy giữa các sòng bạc ở ma cao sẽ còn kéo dài tới khi nào, song có một điều chắc chắn rằng, người dân vẫn tiếp tục được nghe những câu chuyện thú vị và ly kỳ về cuộc chạy đua phong thủy giữa hai thế lực, một đông một tây, một cũ một mới. Và điều quan trọng hơn chính là cuộc đấu phong thủy đầy kịch tính này đã tạo ra không ít công ăn việc làm cho các thầy phong thủy trên đất ma cao.(sưu tầm)


16: Cuộc đấu đá phong thủy nổi tiếng hong kong giữa ngân hàng hsbc và tòa nhà chọc trời bank of china tower.




Ở hồng kông, nơi mà “thầy phong thủy nhiều hơn luật sư”, người ta luôn tin rằng, việc vận dụng phong thủy vẫn có thể tạo nên những “thần thoại” .

Điều này được các thương nhân đặc biệt tin tưởng. Vì vậy, người ta tìm mọi cách lý giải sự thành công và cả những thất bại của mình bằng các nguyên nhân phong thủy. Trụ sở ngân hàng hsbc tại hồng kông là một ví dụ rất điển hình…



1. Những cư dân hồng kông đều nhìn thấy rất rõ rằng, những ông chủ của ngân hàng hsbc không giống như những ông chủ các tòa cao ốc, các ngôi biệt thự sang trọng khác tại hồng kông. Họ không bao giờ giấu giếm việc họ vận dụng phong thủy trong tòa nhà trụ sở của mình nhằm hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Kể từ khi trụ sở hsbc được xây dựng tại hồng kông thì từ vị trí của cặp sư tử đặt ở cửa lớn, thiết kế tòa nhà chính, ngày khai trương ngân hàng,… Mỗi một bước đi đều tuân thủ theo những yêu cầu phong thủy nghiêm ngặt nhất.

Norman foster, người thiết kế trụ sở ngân hàng hsbc tại hồng kông từng nói một cách công khai rằng: “trải qua rất nhiều chất vấn cũng như thách thức, cùng với sự tham gia của các nhà phong thủy, thiết kế cuối cùng của công trình này thể hiện đặc trưng riêng của ngân hàng hsbc”. Từ phát biểu này có thể thấy, từ trong quá trình xây dựng, những ông chủ của ngân hàng hsbc đã rất có ý thức trong việc vận dụng phong thủy.

Nhiều người cho rằng, nhờ bố cục phong thủy tốt, nên sau 20 năm kể từ khi xây dựng trụ sở tại hồng kông vào năm 1986, mỗi năm ngân hàng hsbc đạt mức tăng trưởng 19%.

Trong 20 năm đó, từ một ngân hàng có cổ phần bị phân tán ở nhiều nơi, hsbc trở thành một trong 5 ngân hàng lớn nhất thế giới, quy mô tương đương với ngân hàng quốc gia mỹ.

Trải qua liên tiếp những cuộc khủng hoảng kinh tế của thế giới, rất nhiều ngân hàng làm ăn thua lỗ, tuy nhiên, ngân hàng hsbc tại hồng kông vẫn rất đều đặn phát triển. Năm 2005, riêng lợi nhuận của ngân hàng hsbc trên toàn thế giới đạt hơn 15 tỉ đô la mỹ.

Vì thế, nếu như bố cục phong thủy có vấn đề thì không thể giữ được sự phát triển liên tục trong tình thế khó khăn như vậy.


Liên quan tới phong thủy của tòa nhà ngân hàng hsbc, người hồng kông từng truyền tai nhau rất nhiều câu chuyện ly kỳ. Chuyện kể rằng, trước khi trụ sở ngân hàng hsbc được xây dựng, vị trí này từng là một hội trường lớn.

Trên nóc của hội trường này có một con ngựa vàng, cứ đến buổi tối là phát ra những tiếng kêu thảm thiết khiến người dân nơi đây không ngủ được.

Một buổi tối, canh tuần nhìn thấy một con ngựa lớn chạy ra từ hội trường lao về phía biển uống nước. Khi canh tuần tiến tới quan sát thì thấy con ngựa quay người chạy thẳng lên nóc tòa nhà rồi biến mất. Sáng hôm sau, canh tuần đi thông báo cho cư dân sống xung quanh đó.

Mọi người tới giờ mới biết nguồn gốc của âm thanh thảm thiết hàng đêm làm họ mất ngủ. Tất cả mọi người đều cho rằng, đó là một con ngựa thành tinh, ẩn trốn trên nóc hội trường. Ai cũng sợ lỡ như con ngựa nổi cơn điên sẽ làm hại tới những người dân xung quanh đó.

Vì vậy, tất cả mọi người thống nhất đề nghị trừ bỏ con ngựa thành tinh này để tránh hậu hoạn về sau. Sau khi họp bàn, họ cử ra một người viết đơn gửi lên chính phủ giúp họ diệt trừ ngựa tinh. Tuy nhiên, chỉnh phủ hồng kông sau khi nhận đơn thì cho rằng đây là chuyện mê tín nên không chấp nhận.

Thấy kiến nghị không được chính phủ chấp nhận, người dân phải tự tìm cách diệt yêu quái. Sau đó có một vị pháp sư tới, tự tin nói rằng mình có phép có thể trừ yêu quái. Mọi người đang trong lúc bế tắc không biết làm thế nào nên đồng ý ngay.

Quả nhiên, sau khi vị pháp sư này làm phép thì người ta không còn thấy tiếng ngựa hí, cũng không thấy con ngựa xuất hiện ở tòa nhà hội trường nữa.

Điều kỳ lạ là sau khi làm phép xong, vị pháp sự này cũng biến mất luôn, không biết là đi đâu. Người ta tin rằng, vị pháp sư nọ là đấng thần tiên và chắc chắn rằng mảnh đất nơi xây dựng ngân hàng hsbc sau này được thần tiên phù trợ.

Có lẽ thú vị và ly kỳ nhất là cuộc đấu phong thủy giữa ngân hàng trung quốc và ngân hàng hsbc hồng kông. Người ta kể rằng, tòa nhà của ngân hàng shbc vốn được xây dựng trước, tuy nhiên, ngay sau khi tòa nhà của ngân hàng trung quốc hoàn thành thì ngay lập tức giá cổ phiếu của hsbc xuống dốc một cách thảm hại mà không rõ lý do.

Những người chủ của ngân hàng hsbc cho rằng, nguyên nhân bắt nguồn từ phong thủy của tòa nhà ngân hàng trung quốc, vì vậy họ đã nhờ các thầy phong thủy giỏi nhất ở hồng kông chỉ điểm.

Sau khi bàn tính kỹ càng, cuối cùng các nhà phong thủy quyết định xây dựng trên tầng thượng của tòa nhà ngân hàng hsbc hai khẩu “đại pháo”, đồng thời nòng pháo được hướng thẳng về phía trụ sở của ngân hàng trung quốc. Nhờ vậy mà một thời gian ngắn sau đó, giá cổ phiếu của ngân hàng hsbc lại phục hồi trở lại.

2. Theo các nhà phong thủy, bố cục phong thủy của trụ sở ngân hàng hsbc là bố cục phong thủy đẹp nhất tại hồng kông. Tuy nhiên, đây cũng lại là bố cục phong thủy gây ra nhiều tranh cãi nhất.

Nhiều nhà phong thủy cho rằng, tất cả những bố trí phong thủy tại tòa nhà này đều hoàn toàn ngược lại so với những nguyên lý phong thủy truyền thống trung quốc. Và đây chính là lý do, ngân hàng hsbc càng về sau càng có vẻ như đang “đi xuống”.

Theo các chuyên gia phong thủy, khuyết điểm lớn nhất trong kết cấu của trụ sở ngân hàng hsbc chính là toàn bộ mặt bằng của tòa nhà thông suốt với nhau.




Theo quan niệm phong thủy, một mặt bằng quá rộng và bằng phẳng sẽ không phải là nơi có thể tụ khí lý tưởng. Tại tầng trệt của trụ sở hsbc chỉ có hai thang cuộn, một cái đi lên trên, một cái đi xuống dưới. Do mặt bằng quá rộng, thang máy hướng lên trên không thể giúp ngân hàng này tụ đủ vượng khí.

Ngược lại, chiếc thang máy đi xuống lại đem toàn bộ những vượng khí kéo xuống phía dưới. Tầng trệt quá rộng và trống trải khiến trụ sở của hsbc giống như một cái thùng bị thủng đấy, tiền tài cũng khó giữ được lâu. Đây chính là lý do thứ nhất khiến việc làm ăn của hsbc ngày càng đi xuống.

Trụ sở hsbc hồng kông được xây dựng trên phần cuối của mạch núi thái bình. Lưng dựa vào núi thái bình, mặt trái là tòa nhà trụ sở của ngân hàng chartered, bên mặt phải chính là tòa nhà trụ sở của ngân hàng trung quốc cũ, trước mặt là quảng trường edinburgh, bến phà thiên tinh, cảng victoria.

Điều này khiến nhiều người cho rằng, bố cục phong thủy của tòa nhà trụ sở của hsbc là rất hoàn mỹ. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là sau này, bến phà thiên tinh bị phá dỡ và sửa lại, điều này khiến minh đường của trụ sở ngân hàng hsbc bị tổn hại.

Phong thủy có câu rằng, núi thì quản người, nước thì quản tiền tài, một khi minh đường bị tổn hại, đường tài vận không thể nào không bị ảnh hưởng. Trước khi bến phà thiên tinh bị phá bỏ, minh đường của tòa nhà hsbc khí thế rất thịnh. Tuy nhiên, kể từ khi bến phà thiên tinh khởi công sửa đổi thì sự phát triển của hsbc không còn được như trước nữa.

Cũng theo các nhà phong thủy, cách giải quyết tốt nhất về mặt phong thủy cho ngân hàng hsbc lúc này chính là cho đặt hai hàng hoa ở phía trước và phía sau tòa nhà, hàng hoa ở phía sau cao hơn so với hàng hoa ở phía trước một chú.

Biện pháp này có thể giúp “khí” Của tòa nhà có thể tụ lại một chút. Một khi khí đã tụ thì tiền cũng sẽ tụ lại. Tuy nhiên, đây chỉ là biện pháp tình thế.

Đợi tới khi bến phà thiên tinh tu sửa xong, ngay lập tức có biện pháp sửa đổi để bến phà mới không ảnh hưởng tới minh đường của tòa nhà thì hsbc chắc chắn không phải lo tới vị trí của mình trên thị trường tài chính.

17: Phong thủy lừng danh của Lưu Bá Ôn

Người ta nói rằng, bất cứ nơi đâu ở Trung Quốc có lưu truyền những truyền thuyết về Lưu Bá Ôn thì ở đó ắt có tích về phong thủy. Có lẽ, chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta lại gọi Lưu Bá Ôn là bậc tông sư về phong thủy…

Chuyện kể rằng, sau khi lên ngôi hoàng đế, cũng giống như những vị hoàng đế khác, muốn cho giang sơn do mình gây dựng có thể truyền cho con cháu ngàn vạn đời sau, Chu Nguyên Chương bèn phái Lưu Bá Ôn đi khắp nơi trong cả nước xem phong thủy, tìm mọi cách ngăn chặn xuất hiện những người “mệnh lớn”, có thể cướp đoạt thiên hạ của nhà họ Chu.

Lưu Bá Ôn nhận lệnh của Chu Nguyên Chương, lưng mang thần kiếm đi khắp Nam Bắc. Một khi nhìn thấy long mạch lập tức vung kiếm phá bỏ, trừ hậu họa cho hoàng thất họ Chu.

Một ngày, Lưu Bá Ôn đi tới Giang Trang ở chân núi Thạch Khanh, bỗng nhiên thấy từ dưới đất có một con trâu bằng đá đang chạy về phía Giang Trang. Lưu Bá Ôn liền bấm quẻ rồi đến buổi tối hôm đó xem tinh tượng, bỗng nhiên hét lên:

“Không ổn!” Theo tính toán của Lưu Bá Ôn, trong Giang Trang nhất định sẽ sinh ra một người có “mệnh lớn”, tương lai có thể tranh đoạt giang sơn của triều Minh. Để ngăn chặn việc xuất hiện này, Lưu Bá Ôn đã thi triển phép thuật, dùng bảo kiếm chặt con trâu đá làm ba khúc, phá đi phong thủy của Giang Trang.

Một khi phong thủy đã bị phá, người “mệnh lớn” sẽ không thể xuất hiện được nữa. Lưu Bá Ôn còn sợ con trâu đá sau khi bị giết sẽ hồi sinh nên lại dùng lại dùng pháp thuật đem ba khúc của con trâu vừa bị chặt chôn ở 3 nơi khác nhau.

Một lần khác, Lưu Bá Ôn tới vùng Tương Hồ. Lưu Bá Ôn từ lâu đã biết rằng, vùng Tương Hồ là nơi từng được thần tiên làm phép, vì thế, núi sông nơi đây đều có khí tiên. Lần này được chứng kiến tận mắt, quả nhiên không hề tầm thường.

Chỉ thấy, vùng Tương Hồ ba mặt đều có núi vây bọc, tổng cộng có 99 con suối chảy từ trên núi xuống, mỗi con suối đều ẩn vào trong các khe đá. 99 con suối này đều được tích lũy khí âm nhu nhiều năm bên cạnh khí cương dương của Tương Hồ.

Một khi suối và hồ tương giao, nhất định ngày sau sẽ xuất hiện bậc chân mệnh thiên tử. Tuy nhiên, dường như đây đã là địa thế do tự nhiên tạo ra, làm thế nào để phá được thế phong thủy này? Đây là một vấn đề hóc búa ngay cả với bậc tông sư như Lưu Bá Ôn. Vì thế, Lưu Bá Ôn đã ở lại Tương Hồ, suy nghĩ các phá giải địa thế phong thủy này.

Một ngày, sau khi đã lao tâm khổ tứ nghĩ đủ mọi cách mà vẫn chưa nghĩ ra, Lưu Bá Ôn lang thang đi tới chân một quả núi, bất ngờ nhìn thấy một hòn đá. Đương lúc mệt mỏi, Lưu Bá Ôn thấy viên đá phẳng phiu bèn ngồi xuống nghỉ chân.

Nào ngờ vừa ngồi xuống thì sự mệt mỏi từ đâu kéo tới, Lưu Bá Ôn dần dần chìm vào giấc ngủ. Cũng chẳng biết Lưu Bá Ôn đã ngủ bao lâu, chỉ biết khi tỉnh lại Lưu Bá Ôn thấy rằng thanh kiếm mình đeo ở hông đã bị tuốt ra khỏi vỏ, mũi kiếm đang chúc xuống dưới đất bên dưới viên đá, ngay chỗ mũi kiếm nước đang phun ra.

Nước từ dưới đất như như những hạt châu báu bám lấy thanh kiếm mà nhảy lên mặt đất. Lưu Bá Ôn giật mình, thần kiếm làm sao tự động tuốt khỏi vỏ? Vì sao mũi kiếm lại chỉ đúng chỗ có mạch nước được? Nhìn kỹ lại, Lưu Bá Ôn chợt mừng thầm.

Hóa ra chỗ đầu thạch kiếm chọc xuống đất chính là chỗ mạch quan trọng nhất giữa hồ và suối. Chỉ cần phá bỏ được mạch nước quan trọng này, biến nó thành một con suối, cho người qua đường hoặc chim thú trong rừng uống thì linh khí của nó tự khắc sẽ biến mất.

Làm được như vậy thì nơi đây chỉ còn là một nơi danh lam thắng cảnh chứ không thể xuất hiện đế vương được nữa.

Nghĩ vậy, Lưu Bá Ôn bèn dùng kiếm thần của mình chém xuống đất nhiều nhất, mạch nước suối từ dưới đất phun lên. Lúc bấy giờ, vừa may có một người tiều phu từ đâu đi tới. Lưu Bá Ôn thấy vậy vừa uống nước từ dưới đất phun lên, vừa cố ý nói lớn:

“Nước ngon thật! Nước ngon thật!” Người tiều phu đang lúc khát nước, nghe thấy Lưu Bá Ôn nói nước ngon bèn quỳ xuống bên cạnh, dùng tay vốc nước đang phun từ dưới lòng đất lên uống. Quả thật, nước vừa vào tới miệng đã thấy ngọt như mật, người cũng không còn thấy khát nữa.

Người tiều phu lúc này mới nhìn xung quanh tứ phía, thấy làm lạ, tự nói với mình: “Ta thường xuyên đi lại qua đoạn đường này mà trước nay chưa từng thấy con suối này. Không biết con suối này từ đâu mà ra?”

Lưu Bá Ôn đang đứng bên cạnh nói: “Con suối này tất có nguồn của nó, uống được nó tất có điều tốt!” Nói xong, Lưu Bá Ôn liền dùng thuật ẩn thân, biến mất trong chớp mắt.

Người tiều phu vừa thấy Lưu Bá Ôn đứng trước mặt mình nói chuyện, chỉ nhoáng một cái đã không còn thấy đâu nữa, cảm thấy rất kỳ quái. Chợt nghĩ lại, người tiều phu cảm thấy đã từng gặp người đàn ông kia ở đâu rồi.

Nghĩ một lát, người tiều phu reo lên, hóa ra là Lưu quân sư. Hóa ra, người tiều phu này là một quân sĩ đã giải ngũ về ở ẩn. Khi còn trong quân ngũ, ông ta đã từng gặp Lưu Bá Ôn. Nhớ lại câu nói của Lưu Bá Ôn rằng uống nước này tất có điều tốt, người tiều phu bèn bỏ bó củi trên lừng, tìm vật liệu dựng một căn lều ngay bên con suối rồi sống luôn ở đây.

Do thường xuyên uống nước từ con suối này, người tiều phu lúc nào cơ thể cũng tráng kiện, khuôn mặt hồng hào. Có người hỏi nguyên nhân vì sao ông có thể khỏe mạnh và trẻ lâu tới như vậy, người tiều phu đều nói là do ông uống nước ở con suối do Lưu Bá Ôn dùng kiếm thần tạo thành.

Không chỉ được giao nhiệm vụ phá thế phong thủy, đoạn long mạch để ngăn chặn việc xuất hiện thiên tử, tranh chấp thiên hạ với họ Chu, Lưu Bá Ôn còn được Chu Nguyên Chương tin tưởng giao cho nhiệm vụ cải tạo phong thủy để đem lại điều lợi cho sự cai trị của triều Minh.

Chuyện kể rằng, sau khi sửa sang song Bắc Kinh, nơi sau này được lựa chọn làm kinh đô triều Minh, Chu Lệ, khi đó vẫn còn là Yên Vương đã tiến hành tu sửa các lăng mộ. Kể từ lúc Chu Nguyên Chương lên ngôi đã lập tức cho sửa phần mộ.

Tuy nhiên, việc sửa phần mộ trước hết phải chọn được nơi đặt mộ. Một hôm, Yên Vương nói với quân sư Lưu Bá Ôn rằng: “Ngươi hãy dẫn đường, chúng ta cùng đi tìm một nơi đặt mộ thật tốt”. Lưu Ba Ôn vừa nghe đã biết Yên Vương muốn tìm địa điểm để đặt hoàng lăng.

Nơi đặt hoàng lăng có can hệ tới vận mệnh của cả triều đại, do vậy phải là nơi có phong thủy thượng đẳng mới được. Nghĩ thế, Lưu Bá Ôn đã cùng với Yên Vương ra đi. Tuy nhiên, hai người từ Đông đi sang Tây, rồi lại từ Nam đi lên Bắc nhưng vẫn không chọn được địa điểm ưng ý.

Cuối cùng, hai người chọn đi từ Bắc xuống phía Tây. Đi một lúc thì tới Đông Trang, hai người nhìn thấy một cây óc chó và một ngọn núi đất vàng, phong cảnh khá đẹp. Yên Vương nói: “Nơi đây được đấy!” Lưu Bá Ôn nói: “Nơi đây chưa được!” Vì sao lại không được?

Lưu Bá Ôn chỉ tay về ngọn núi đất vàng phía trước mặt nói: “Điện hạ xem, đây là phần đất cao, chắc chắn là không thể có long mạch. Xây lăng tại nơi đây, đất nước có nguy cơ bị hủy hoại”. Yên Vương vừa nghe đến câu đất nước bị hủy hoại đã lắc đầu nói: “Không được. Vậy tìm một nơi khác”.

Hai người lại tiếp tục đi tới Tây Trang. Tới đây, Lưu Ba Ôn chỉ tay nói: “Điện hạ, ngài thử nhìn về hướng Bắc xem”. Hai người cùng nhìn về hướng Bắc, bỗng thấy ánh sáng phát ra. Yên Vương nói: “Nơi đây là mảnh đất tốt, thử tới gần xem thử ra sao”.

Hai người cùng tới nơi thì thấy nơi đây ba mặt đều có núi che chở, dựa vào phía Bắc quay mặt về phía Nam, là một nơi có địa thế cực đẹp. Yên Vương lúc này vui mừng ra mặt quay sang hỏi Lưu Bá Ôn: “Giờ thì được rồi chứ?”

Lưu Bá Ôn nói: “Không tệ, có thể nói là nơi đất tốt. Điện hạ từ đây nhìn về phía Nam thử, nơi đây phía bên trái có núi thanh long, bên phải có núi bạch hổ, tả thanh long, hữu bạch hổ, chỗ điện hạ đang đứng chính là ổ mà thanh long nằm đấy”.

Yên Vương nghe xong vui mừng nói: “Được vậy sẽ xây lăng mộ tại đây”. Lưu Bá Ôn cầm một vốc tiền cổ đem chôn xuống dưới đất ngay chỗ Yên Vương đứng để đánh dấu.

Một chuyện khác lại kể rằng, Lưu Bá Ôn sau khi giúp Chu Nguyên Chương lập nên nhà Minh thì xin cáo quan về quê ở ẩn, nhằm tránh những đòn thù của Chu Nguyên Chương lẫn quan thừa tướng Hồ Duy Dung.

Để Hồ Duy Dung lẫn Chu Nguyên Chương không biết được hành tung của mình, Lưu Bá Ôn bèn cải trang làm đạo sĩ, bí mật rời khỏi nhà, ngao du thiên hạ, trở thành một đại sư phong thủy thần bí trong giang hồ.

Một lần, Lưu Bá Ôn đi tới Cửu Đàm núi La Phù. Người đi cùng ông là tướng quân Bành Oánh Ngọc trong trang phục một hòa thượng. Vì sao Lưu Bá Ôn lại tìm tới Cửu Đàm ở núi La Phù?

Hóa ra, chuyện là khi Lưu Bá Ôn dẫn quân nam chinh đã từng đi qua Cửu Đàm, nhận thấy nơi đây địa thế không tệ, tuy nhiên, nhân dân lại nghèo khó. Xem xét một hồi, Lưu Bá Ôn phát hiện ra rằng, mặc dù địa thế nơi đây tốt nhưng người dân vẫn nghèo là do nơi đây xuất hiện bố cục trấn phong thủy.

Lúc bấy giờ, do quân tình khẩn cấp, không tiện dừng lại lâu, Lưu Bá Ôn đã hứa với người dân ở Cửu Đàm rằng, đợi tới khi đất nước thống nhất sẽ quay trở lại đây giúp họ thay đổi bố cục trấn phong thủy kia để họ có thể thay đổi cuộc sống của mình.

Chính vì thế, sau khi cáo lão về quê, nhớ tới lời hẹn năm xưa, Lưu Bá Ôn đã quyết định quay trở lại Cửu Đàm.

Năm xưa khi hành quân qua Cửu Đàm, Lưu Bá Ôn đã từng xem xét nhiều lần địa hình, địa thế của Cửu Đàm. Phần lưng của Cửu Đàm dựa vào núi La Phù, mỗi năm lũ từ trên núi La Phù đều đổ xuống Cửu Đàm. Đây chính là bố cục đã trấn áp phong thủy của Cửu Đàm.

Vì vậy, Lưu Bá Ôn cho rằng, chỉ cần trị được lũ từ trên núi đổ xuống khu vực Cửu Đàm thì người dân có thể tránh được tai nạn hàng năm, từ đó có thể an cư lạc nghiệp.

Lưu Bá Ôn đã cùng người dân Cửu Đàm nắn dòng chảy của con suối thành theo hình chữ chi để giảm sức chảy của dòng nước khi có lũ về nhờ vậy, thay đổi luôn cả bố cục phong thủy bị trấn áp của Cửu Đàm. Từ đó về sau, người dân Cửu Đàm không còn phải chịu lũ quét hàng năm nữa.

Câu chuyện “Trăm mèo giữ cá” cũng ghi lại một truyền thuyết phong thủy rất thú vị về Lưu Bá Ôn. Chuyện kể rằng, ba anh em họ Du gồm Du Thông Hải, Du Thông Nguyên và Du Thông Uyên đều là những bộ tướng rất giỏi của Sào Hồ thủy quân Lý Bát Đầu.

Khi Chu Nguyên Chương dẫn binh chiếm Hòa Châu, Lý Bát Đầu bị Nguyên Đạt Tử ở Lô Châu đán úp nên muốn mượn quân của Chu Nguyên Chương để báo thù. Trong khi đó, Chu Nguyên Chương muốn mượn thuyền của Bát Đầu vượt sông tới Thái Bình Phủ, giải quyết vấn đề lương thảo.

Hai người liên hợp với nhau tuy nhiên mỗi bên đều có tính toán riêng cho mình. Anh em họ Du theo lệnh của Bát Đầu đã giúp Chu Nguyên Chương lên kế hoạch lấy được Thái Bình đồng thời mang thủy quân Sào Hồ tới đại doanh trại của Chu Nguyên Chương, khiến quân của họ Chu như hổ mọc thêm cánh.

Ba anh em họ Du dũng cảm thiện chiến, lập được nhiều chiến công. Trong đó công lao lớn nhất chính là người anh cả Du Thông Hải. Du Thông Hải tự là Bích Tuyền, đã theo Chu Nguyên Chương phá Hải Nha, đánh gục Ninh Quốc, đuổi Trần Hữu Lượng, bắt sống Trương Sĩ Thành,… công trạng rất lớn, từng được phong làm Bình Chương Chính sự và nhiều chức vụ trọng yếu khác trong quân đội.

Tuy nhiên, trong trận Bình Giang, Du Thông Hải không may bị trúng tên mà chết. Khi Du Thông Hải chết, Chu Nguyên Chương ôm xác họ Du mà khóc, đồng thời nói với Lưu Bá Ôn và tướng quân Từ Đạt rằng: “Vừa mới bắt đầu cuộc chiến, Bích Tuyền đã chết khác gì ta mất một cánh tay! Mau mau thu quân, tổ chức tang lễ cho ông ta”.

Lúc bấy giờ, Lưu Bá Ôn và Từ Đạt cũng chảy nước mắt nói, khuyên rằng: “Bích Tuyền chết, thần cũng đau lòng, thiết nghĩ cũng nên tổ chức tang lễ. Chỉ là hiện tại không có thời gian, mong chúa công nên lấy xã tắc làm trọng, quân không thể thu, bính lính không thể rút lui được!”

Du Thông Nguyên và Du Thông Uyên cũng khóc lóc nói: “Ơn sâu của chúa công khiến anh em họ Du chúng tôi dù có tan xương nát thịt cũng không thể báo đáp cho hết được.

Khi cơ nghiệp sắp thành mà rút binh cũng không phải là mong muốn của anh trai chúng thần”. Mọi người đều khẩn khoản can gián, Chu Nguyên Chương nghe có lý, đành phải gạt nước mặt nói: “Được! quân sư, hãy nhớ cho kỹ, sau này nếu có phong thưởng thì Bích Tuyền sẽ là người đầu tiên”.

Sau này khi khởi nghĩa thành công, Chu Nguyên Chương lập nên nhà Minh, xưng làm hoàng đế đã tổ chức quốc tang cho Du Thông Hải, truy phong làm Quắc Quốc Công, thụy hiệu là Trung Liệt.

Du Thông Nguyên được phong làm Nam An Hầu còn Du Thông Uyên được phong làm Việt Tuyển Hầu. Ngoài ra, Chu Nguyên Chương còn đặc cách hạ lệnh cho Lưu Bá Ôn giúp mình xây dựng một căn nhà thật đẹp tặng cho anh em họ và con cháu họ Du.

Lưu Bá Ôn cùng với ba anh em họ Du đều sống chêt vì Chu Nguyên Chương đánh lấy thiên hạ, lập nhiều chiến công. Trong quá trình khởi nghĩa, hai bên cũng có thể nói là vào sống ra chết cùng nhau, tình cảm sâu nặng.

Nay được Chu Nguyên Chương giao việc xây nhà cho họ Du, Lưu Bá Ôn đương nhiên không có lý do gì để không làm hết sức mình. Vì thế, ngôi nhà mà Lưu Bá Ôn xây dựng cho anh em họ Du hết sức nguy nga tráng lệ. Ngoại trừ hoàng cung, tại Nam Kinh không có ngôi nhà nào có thể sánh kịp với căn nhà này.

Tuy nhiên, người đời xưa thường nói, cây càng cao thì gió càng lớn. Căn nhà quá to, thường bị người ta lấy ra so sánh với hoàng cung của anh em họ Du đương nhiên khó tránh khỏi việc mang theo mầm họa.

Thừa tướng Hồ Duy Dung trước mặt Chu Nguyên Chương đã bẩm tấu rằng: “Bệ hạ phong công, phong hầu cho nhà họ Du, lại còn tổ chức quốc tang cho Du Thông Hải, có thể nói là đối đãi với họ không hề bạc. Nay bệ hạ lại xây cho nhà họ Du một căn nhà to đẹp như vậy, sợ rằng…”

Chu Nguyên Chương ngắt lời họ Hồ, nói: “Bích Tuyền công ở trên tất cả mọi người, đó là ý trẫm quyết định”. Hồ Duy Dung vẫn chưa chịu thôi, nói: “Đây là chỗ nhân hậu của bệ hạ. Tuy nhiên, đây có lẽ sẽ là điều bất lợi cho xã tắc”.

Chu Nguyên Chương bắt đầu để ý, hỏi: “Vì sao?” Hồ Duy dung chỉ vào căn nhà cao ngất của nhà họ Du nói: “Bệ hạ xem, mây khói thành vòng, nhà họ Du xuất hiện vương khí!” Chu Nguyên Chương nghe thấy hai chữ “vương khí” thì trầm ngâm không nói.

Hồ Duy Dung biết cơ hội đã tới, nói tiếp: “Du Thông Hải khi còn sống đức cao vọng trọng, bộ hạ cũ đều quen nghe chỉ huy của ông ta. Nay Thông Nguyên và Thông Uyên đều giữ chức vụ quan trọng, hậu duệ của Thông Hải lại đều là những người xuất sắc.

Nếu một ngày nào đó họ có chí khác thì thiên hạ của Đại Minh e rằng không được bền lâu”. Vốn tính đa nghi, lại chỉ lo có kẻ tranh giành thiên hạ với mình nên khi nghe những lời này của Hồ Duy Dung, Chu Nguyên Chương không khỏi gật đầu, nói: “Ngươi nói nên làm thế nào?”Hồ Duy Dung nói ngay: “Dỡ nhà, phá vương khí”.

Vừa may, câu chuyện mới tới đó thì Lưu Bá Ôn tới. Vừa nghe thấy lời của Hồ Duy Dung, trong lòng Lưu Bá Ôn đã thất kinh. Nếu như dỡ nhà thì chẳng phải nhà họ Du cũng bị hủy hoại hay sao?

Lưu Bá Ôn định lên tiếng ngăn cản Chu Nguyên Chương, tuy nhiên, chợt nghĩ, nay Chu Nguyên Chương đã là hoàng đế chứ không còn là người ra sống vào chết với nghĩa quân khi xưa nữa, nếu không cẩn thận có thể mất mạng như chơi.

Chợt trong đầu Lưu Bá Ôn lóe lên một cách. Ông vội bước vào trong phòng nói với Chu Nguyên Chương: “Hoàng thượng, khi xây dựng thần đã sơ ý xây nhà của họ Du quá cao. Thần đang định đến gặp hoàng thượng để xin ý kiến về việc giải trừ vương khí của nhà họ Du”.

Chu Nguyên Chương thấy vậy hỏi: “Tiên sinh có kế gì không?” Lưu Bá Ôn nói: “Cá (trong tiếng Hán, chữ cá với họ Du có cách đọc như nhau, vì thế cá ý chỉ nhà họ Du) mà ra biển thì có thể hóa rồng. Nay thần chỉ cho căn nhà họ Du một cái giếng.

Lại thêm, cá vốn rất sợ mèo ăn thịt vì thế, thần đã phái một con mèo canh giữ trước cửa, cá chỉ cần lò đầu ra thì mèo có thể nuốt gọn. Như vậy, chẳng cần phải tốn công sức dỡ nhà khiến mất lòng dân, phá hoại cảnh thái bình thịnh trị mà vẫn có thể trừ được vương khí nhà họ Du. Hoàng thượng thấy sao?”

Chu Nguyên Chương nghe kế của Lưu Bá Ôn thấy hợp lý bèn nói: “Cứ theo cách của tiên sinh mà làm”.

Sau khi được sự đồng ý của Chu Nguyên Chương, Lưu Bá Ôn đã bày “bát quái trận” xung quanh nhà họ Du. Ông lệnh cho quân sĩ dựng một tấm bia đá ở trước cửa nhà họ Du, bên trên bia khắc hình hơn 100 con mèo.

Phía trước của tấm bia là một cái giếng. Phía sau nhà là một bức tường chặn kín. Phía Đông của căn nhà là một đài câu cá. Sau đó, Lưu Bá Ôn nói với Chu Nguyên Chương: “Nếu như một ngày nào đó, con cá này phá cửa mà ra thì sẽ bị hơn 100 con mèo nuốt chửng.

Nếu như có chạy thoát khỏi 100 con mèo thì phía sau là tường chắn, hai phía Đông Tây là đài câu cá, tầng tầng lớp lớp bao vây, nó cũng không thể ra được tới biển để biến thành rồng được. Muốn có nước chỉ còn cách là xuống chiếc giếng ở trước nhà. Cá mà sống ở giếng thì không thể nào làm nên trò trống gì được”.

Chu Nguyên Chương thấy rằng sắp đặt như vậy, nhà họ Du sẽ không bao giờ có thể ra tới biển để trở thành rồng thì vui mừng lắm, thưởng cho Lưu Bá Ôn rất hậu hĩnh.

18: Hai bậc thầy phong thủy Lý Thuần Phong và Viên Thiên Cang







Hai bậc thầy phong thủy nổi tiếng đầu đời nhà Đường cùng chọn một nơi làm mộ táng sau này của mình. Nhưng vì sao chỉ có một ngôi mộ được gìn giữ toàn vẹn, còn ngôi kia thì bị phá hủy trống rỗng?

Trung Quốc thời cổ đại xuất hiện nhiều người thông kim bác cổ, biết trước tương lai và đoán được tai họa cho nhân loại. Những bậc Thánh nhân này không những có thể dự đoán cát hung, họa phúc mà còn có thể nhìn được tương lai của đất nước. Như Khương Tử Nha, Gia Cát Lượng, Lưu Bá Ôn… đều là những người có khả năng phi phàm ấy.

Trong số những người lợi hại nhất ấy tất phải kể tới hai bậc thầy phong thủy dưới đây. Họ cùng sống trong một thời đại, sau khi qua đời được an táng tại cùng một nơi. Tuy nhiên, sau ngàn năm, lăng mộ của một người thì bị trộm đào bới trống rỗng tới mức thảm hại, còn mộ của người kia lại hoàn toàn không bị hư tổn, cũng chẳng có ai dám động vào.
Bộ đôi hiển hách

Tương truyền, Lý Thuần Phong và Viên Thiên Cang là hai người bạn đồng liêu, hai quân sư đắc lực của vua Đường Thái Tông (Lý Thế Dân). Khi đó, Viên Thiên Cang là quốc sư, là nhà tướng học, thiên văn học, tinh tượng học nổi tiếng, có thể xem tướng, dự đoán cát hung vô cùng linh nghiệm. Ông cũng là người đã dự đoán chính xác việc Võ Tắc Thiên đăng cơ xưng đế sau này.

Trong “Cựu Đường Thư” có chép lại rằng, không lâu sau khi Võ Tắc Thiên ra đời, Viên Thiên Cang, bậc thầy tướng số khi đó được vua Đường triệu kiến. Trên đường vào kinh đô ông đi qua Lợi Châu. Cha của Võ Tắc Thiên khi đó vốn là Thứ sử đã mời ông tới tư gia để xem tướng cho Dương thị vợ mình.

Lúc đó Võ Tắc Thiên vẫn còn là cô bé đang ẵm ngửa, được vú em mặc quần áo con trai, cũng được bế ra xem tướng. Viên Thiên Cang sau khi nhìn thấy đứa bé này đã vô cùng kinh ngạc nói: “Long đồng phượng cảnh, cực quý nghiệm dã” (có tướng mạo rồng phượng, khuôn mặt của quý tử).

Nhưng khi ông thấy Võ Tắc Thiên mặc quần áo con trai thì lại nói đầy tiếc nuối: “Đáng tiếc lại là con trai. Nếu là con gái e rằng sau này sẽ làm chủ thiên hạ”. Còn Lý Thuần Phong khi đó làm chức Thái sử lệnh, cũng có thể dự đoán vận mệnh tốt xấu của đất nước không sai lệch chút nào.

Sau khi hai người hợp sức hoàn thành tác phẩm kinh điển “Thôi Bối Đồ”, Viên Thiên Cang vân du bốn biển, tiếp tục tu Đạo. Mãi cho tới khi Võ Tắc Thiên đăng cơ, ông mới lại xuất hiện trở lại. Khi đó ông và Lý Thuần Phong nhận lệnh Hoàng đế, đi tìm đất xây cất lăng mộ cho Võ Tắc Thiên lúc trăm tuổi.

Hai người cùng cất công khó nhọc, kết quả tìm được một địa điểm hoàn toàn trùng hợp như nhau, nơi sau này là Càn Lăng, lăng mộ hợp táng của Đường Cao Tông (Lý Trị) và Võ Tắc Thiên.

Trong suốt hàng ngàn năm, khu lăng mộ này liên tục bị những tên trộm mộ khét tiếng nhất như Hoàng Sào đột nhập, tìm cách khai quật nhưng vẫn được vẹn toàn chẳng chút mảy may hư tổn.

Mỗi lần lăng mộ của Võ Tắc Thiên bị đào trộm thì đều xuất hiện những hiện tượng kỳ lạ. Sau này, dân gian truyền nhau rằng đó là khu lăng mộ bất khả xâm phạm vì đã được Viên Thiên Cang và Lý Thuần Phong tự tay sắp đặt. Danh tiếng của hai người này bởi thế lại càng thêm hiển hách, vang xa.
Mỗi người một số phận

Tương truyền, khi tự chọn nơi an táng cho mình, Viên Thiên Cang đã đến Thiên Cung ở Lãng Trung, ngoại ô phía đông nam kinh thành Trường An. Cho rằng đây là bảo địa hiếm có, ông đã chôn miếng tiền đồng vào huyệt vị.

Khi xây mộ, người ta lại phát hiện ra rằng Lý Thuần Phong cũng đã lựa chọn nơi đây làm mộ địa, đành đến nha môn bẩm báo. Kết quả lại phát hiện ra trên mặt đồng tiền của Viên Thiên Cang có cắm trâm bạc của Lý Thuần Phong.

Thế là hai vị đại sư mỗi người lùi phần mộ của mình về phía sau 2 dặm, cùng chia sẻ mảnh đất quý. Trên mảnh đất bằng phẳng đó, mộ của Lý Thuần Phong ở phía nam còn mộ của Viên Thiên Cang ở phía bắc, chỉ cách nhau vài trăm mét, có thể nói là hàng xóm láng giềng.

Mặc dù hai ngôi mộ chỉ cách nhau vài trăm mét nhưng số phận của chúng lại hoàn toàn khác biệt. Sau khi Đại Đường bị diệt vong, mộ của Lý Thuần Phong đã bị đào trộm, hủy hoại tới hoàn toàn trống rỗng không còn ra hình thù. Giờ đây, nó trở thành một khu danh thắng đón khách du lịch hàng năm.

Ngược lại, mộ của Viên Thiên Cang lại được gìn giữ toàn vẹn dù trải qua sương gió hơn cả ngàn năm. Suốt quãng thời gian dài đằng đẵng ấy, không một tên trộm mộ nào dám bén mảng đến đây. Vì sao lại có chuyện kỳ lạ như vậy?

Thứ nhất là bởi Viên Thiên Cang thực sự đã đắc Đạo thành Tiên. Trong các truyền thuyết cổ cũng kể rằng về cuối đời Viên Thiên Cang đã tu thành đắc Đạo. Lăng mộ ở từ đường Đỗ Công chẳng qua chỉ là mộ giả, chôn quần áo, di vật của ông.

Những tên trộm mộ thời cổ đại dù tài giỏi đến đâu cũng luôn tuân thủ một quy tắc bất thành văn là không bao giờ động tới mộ của những Thánh nhân đắc Đạo. Hơn nữa một khi đã đắc Đạo thành Tiên, trong mộ chỉ là áo mũ, di vật, chẳng có ngọc ngà, châu báu giá trị gì. Cổ vật tìm thấy trong lăng mộ của Gia Cát Lượng cũng tương tự như vậy.

Thứ hai là bởi khu đất mà Viên Thiên Cang lựa chọn để xây lăng mộ cho mình, trải qua hàng ngàn năm lịch sử luôn được các triều đại chọn làm căn cứ quân sự. Bởi thế, nó luôn được xếp vào dạng bất khả xâm phạm, hiểm địa tuyệt mật.

Đương nhiên, chẳng có tên trộm nào to gan đến mức dám đột nhập vào doanh trại quân đội để trộm mộ. Sau này, tới thời cải cách mở cửa, lăng mộ của Viên Thiên Cang lại được chọn là di tích lịch sử văn hóa trọng điểm nên càng được bảo vệ kĩ càng hơn.

Cuối cùng, các câu chuyện dã sử đời Đường tiết lộ rằng khi lâm bệnh nặng Lý Thuần Phong cũng đã dự đoán được số phận phần mộ của mình. Ông cho rằng mình làm Thái sử lệnh, gây thù chuốc oán với nhiều người nên phần mộ tất là không thể bảo tồn nguyên vẹn. Còn Viên Thiên Cang vốn là quốc sư, luôn tích đức hành thiện bởi vậy mộ phần của ông nghìn năm cũng không bị động tới.

Ngoài ra còn một số câu chuyện tham khảo thêm

https://kientructamlinh.org/category/cau-chuyen-phong-thuy/




Chi tiết về Long Mạch

Người xưa trong quá trình quan sát thế giới tự nhiên đã nhận thấy giữa vũ trụ và con người có mối quan hệ tương tác khá chặt chẽ. Khoa học hiện đại cũng chứng minh rằng sông ngòi, mạch nước, núi non, gò đồi…là biểu hiện của các biến đổi địa chất tích luỹ hàng triệu năm trong vỏ trái đất. Những quá trình vật lý hoá học đó diễn ra trong lòng đất chạy thành hệ mạch, cũng gần giống như hệ thống mạch máu trong cơ thể con người

I. Long mạch là gì?

Long mạch là địa mạch mạnh mẽ, mềm mại, thoắt ẩn thoắt hiện như rồng. Địa mạch lấy hướng núi sông làm tiêu chí, vì vậy các nhà phong thủy học gọi địa mạch là long mạch, là khí mạch đi theo mạch núi. Nói đơn giản đó là khí mạch ở đất (gọi là địa mạch) đi theo gò, núi, lúc ẩn, lúc hiện, quanh co, uốn lượn như hình thể con rồng, nên gọi là "Long".




Ngoại hình là mặt đất nhấp nhô, sinh khí trong lòng đất mới là chính yếu. Long mạch là những khí lành được tích tụ tại một địa điểm, tại địa điểm đó trường năng lượng tốt sẽ cao hơn nơi khác rất nhiều.






Trong cõi tâm linh thì mỗi một Long mạch được sự quản lý, bảo vệ bởi một vị thần có danh hiệu là Quan Đương Xứ Thổ Địa Chính Thần. Mỗi vị quan đó có năng lực thần thông khác nhau, không ai giống ai phụ thuộc vào Long mạch. Long mạch càng lớn thì năng lực thần thông càng cao và ngược lại.

Tuy nhiên đối với người phàm trần thì không thể nào nhìn được long mạch, chỉ có những người có khả năng đặc biệt mới có thể trông thấy hoặc nhận biết . Do đó hầu như không ai biết được vị Quan Thổ Địa nào là pháp lực cao, người nào thì pháp lực thấp.

II. Các loại thế của long mạch:

Mạch của đất gọi là long mạch, việc tìm đất gọi là tầm long, công cụ định thế và hướng đất là cái tróc long. Trước khi xây nhà hoặc táng mộ người ta thường kiếm 1 thầy địa lý giỏi đến để tìm huyệt tróc long.

Long mạch cũng như con người không tự nhiên mà có mà đều phải có nguồn gốc, cha mẹ, tổ tiên. Thông thường, đỉnh núi phía sau huyệt vị được coi là tổ mẫu sơn, lần lượt theo hướng về phía sau sẽ là thiếu tổ sơn, thái tổ sơn… Nơi bắt nguồn của dãy núi chính là tổ tông của Long. Có thể nói sự khởi nguồn của Long có quan hệ vô cùng quan trọng đối với sự phú quý bần tiện cuả long huyệt.

Theo phép tầm long trong phong thuỷ truyền thống, trước hết phải tìm tổ sơn, rồi dò theo long mạch mà tìm đến huyệt.

* Phân loại theo thế long mạch:

Lai Long: rồng đến, tức nói đến hướng long mạch đến. Căn cứ vào phương hướng lượn vòng có thể chia long mạch làm hai loại: dương long và âm long. Dương long là long mạch từ núi Thái Tổ lượn vòng theo hướng chiều kim đồng hồ. Âm long là long mạch từ núi Thái Tổ lượn vòng theo chiều nghịch kim đồng hồ.

Một cách chia Dương long và Âm long khác là: căn cứ vào phương hướng của dòng chảy 2 bên mạch núi để xác định. Nếu lấy hướng của mạch núi để luận long mạch tức dòng nước bên trái chảy sang bên phải, long mạch là Dương long. Ngược lại là Âm Long.

Cụ thế hơn theo hình thái của mạch núi có thể chia long mạch làm 9 loại:.

1- Hồi long: long mạch trở về Tố' sơn. Hình thê long mạch quay về núi Thái Tổ, như rồng liếm đuôi, hổ quay đầu.
2- Xuất dương long: hình thế long mạch, phát tích ngoằn ngèo như thú xuất lâm, như thuyền vượt biển.
3- Giáng long: hình thế long mạch như rồng từ trên trời lao xuống.
4- Sinh long: hình thê long mạch vòng cung, mạch nhánh nhiều như chân rết, như dây leo.
5- Phi long: hình thê long mạch tụ tập như nhạn bay ưng lượn, hai cánh mở rộng, phượng hoàng nhảy múa hai cánh ôm bao.
6- Ngoạ long: hình thế long mạch như hố ngồi, voi đứng, trâu ngủ, vững vàng dừng trú.
7- Ân long: hình thê long mạch không rõ, mạch long kéo
dài.
8- Đằng long: hình thê long mạch cao viễn, hiếm yếu rộng lớn như rồng bay vút lên trời cao.
9- Lãnh quần long: hình thô long mạch như hội tụ các nhánh, như đàn cá đang bơi, đàn chim đang bay.

Long mạch và huyệt có thể ở qui mô lớn hoặc nhỏ, có thể cả một vùng lãnh thổ với những dãy núi nhiều ngọn, những dòng sông suối… có khởi đầu, có kết thúc.

Chẳng hạn ở Việt Nam, hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình làm nên địa mạch vùng đồng bằng Bắc Bộ, lưu vực sông Đồng Nai và Vàm Cỏ làm nên vùng Sài Gòn, Biên Hoà và phụ cận là nơi dân cư hội tụ, thị tứ sầm uất.

* Tìm huyệt (mộ):

Cái gọi là “hình” trong phong thủy chính là hình dạng của núi kết huyệt. Hình là điều kiện quan trọng nhất để tụ khí. Khí vận hành (di chuyển) theo thế núi, thế đất vì vậy bị ngưng tụ lại. Nơi ngưng tụ được linh khí như thế gọi là chân huyệt.






Cuốn Táng Kinh viết: “Hình ngăn khí tụ, hóa sinh vạn vật là đất thượng đẳng”. Nếu không có hình tốt tức thế đất không ngăn được khí. Khí không tụ lại được thì an táng vô nghĩa. Hình có to nhỏ, cao thấp, sấp ngửa, béo gầy, cân lệch.

Các nhà phong thủy chia hình thế đất thành 6 kiểu: tròn, bẹt, thẳng, cong, vuông, lõm.
Yêu cầu hình thế đất: Thứ nhất là phải ngăn được khí (khí tụ); thứ 2 là phải tàng (giấu), đất lộ, khí tán theo gió; thứ 3 phải vuông cân, nếu đất nghiêng lệch khí uế sẽ phát sinh; thứ 4 là thế đất phải có hình vòng cung, khí tụ và lưu thông trong huyệt, đất ẩm.

Thế đất cát thì huyệt sẽ cát; huyệt cát thì nhân sẽ cát. Thông thường, an táng ở trên thế đất phình, cheo leo, lộ lồi, nham nhở, tản mạn, tàn tạ đều mang lại hung họa khôn lường cho đời sau.

Táng Kinh viết rất cụ thể như sau:

- Thế đất có bình phong (đằng sau huyệt mộ có đất hoặc núi cao như bức bình phong để dựa, được che chắn) chôn đúng phép, vương hầu nổi lên.
- Thế đất như tổ yến (tròn, vuông, cân đối) chôn đúng cách, được chia đất phong.
- Thế đất như rìu kép (tròn, vuông, cân đối, phẳng phiu) mộ huyệt có thể giàu có.
- Thế đất lởm chởm (đất không có hình thế), bách sự hỗn loạn.
- Thế đất như loạn y (quần áo bừa bãi), thê thiếp dâm loạn.
- Thế đất như túi rách (chỉ đất, cát, sỏi, phù sa bồi), tai họa liên miên.
- Thế đất như thuyền lật, nữ bệnh nam tù.
- Thế đất ngang lệch (thế đất xiên xẹo, không ra hình thế), con cháu tuyệt tự.
- Thế đất như kiếm nằm (thế đất dài như thanh kiếm), chu di bức hại.
- Thế đất như đao ngửa (thế đất dài như thanh đao), hung họa suốt đời.

Như vậy, sách xưa khẳng định: “Hình thế rõ ràng thì tìm huyệt dễ, không rõ ràng thì tìm huyệt khó khăn”; “Thế đến, hình ngăn gọi là toàn khí. Đất toàn khí khi an táng thì tụ được khí”.

Không những thế, khi chọn đất táng, vai trò của hình và thế cần được coi trọng như nhau. Vì: “Hình và thế thuận là cát, hình và thế nghịch là hung. Thế cát hình hung thì bách phúc không còn, thế hung hình cát thì họa hại vô cùng”.


Huyệt thường là các thế đất hội tụ các yếu tố đắc ý của các qui tắc phong thuỷ như :Trước mặt: có một quả đồi án làm che trước mặt (tiền án)
Phía sau: có một ngọn núi làm chỗ dựa về sau (hậu chẩm)
Bên trái: có tay long
Bên phải có tay hổ (gọi là tả thanh long, hữu bạch hổ).

Tay long và tay hổ có thể là đồi núi, bờ ruộng.. có dạng cánh cung liên hoàn với nhau. Tay long (bên trái, phương đông) lồng ra ngoài tay hổ (bên phải, phương tây) là tuyệt cách. Huyệt còn phải có chỗ trũng cho nước tụ lại ở trước (minh đường).

Nhận đúng long mạch sau đó phải quan sát thủy khẩu (gò, núi xung quanh hoặc ở giữa cửa sông), Án Sơn (núi che chắn phía trước huyệt mộ), Triều Sơn (núi ở phía trước nhưng xa huyệt mộ hơn Án Sơn), minh đường (khoảng trống phía trước huyệt mộ), Thanh Long (gò, núi ở bên trái huyệt mộ), Bạch Hổ (gò, núi ở bên phải huyệt mộ).

III. Vị trí đắc địa và tối kỵ của long mạch:

Nói về long mạch đầu tiên phải phân biệt mạch chính và mạch nhánh. Sách “Kham Dư mạn hứng” nói: “Tìm long mạch phải phân biệt mạch chính mạch nhánh”. Tìm được mạch chính mà đặt huyệt ở mạch nhánh là không cát.

Theo quan niệm của phong thủy, vị trí đắc địa là ở hàm rồng hay thuộc đầu rồng nhưng ở trên khu đất có dạng thân rồng thì tối kỵ. Bởi nếu xây nhà trên đó sẽ phải đào sâu làm động long mạch, khí không còn lưu chuyển hài hòa gây nên những biến cố bất thường gây tai họa. Tai họa càng lớn nếu làm đứt long mạch.

Sinh long: địa huyệt cát, nơi có trường năng lượng tốt. Thê của long mạch, lấy mềm mại, linh hoạt làm quý. Long mạch lên xuống trùng trùng, uốn lượn, như cá nhảy chim bay gọi là sinh long, địa huyệt cát.

Tử long: địa huyệt hung, nơi có trường năng lượng xấu. Nếu long mạch thô thiển, ngang, ngược, cồng kềnh, uế oải như cây khô, cá chết là tử long, địa huyệt hung.

Nhà phong thủy chia long mạch thành các loại long sau: cường long, nhược long, phì long, sấu long, thuận long, nghịch long, tiến long, thoái long, bệnh long, kiếp long, sát long, chân long, giả long, quý long, tiện long....

Long mạch quan hệ mật thiết với các núi, gò của huyệt mộ. Phần chân long (long mạch chính) cần có nhiều núi gò bảo vệ. Có nhiều núi gò hộ vệ, chủ càng giàu có, sang trọng. Long mạch được núi vây quanh dày đặc là hộ vệ có tình, không lệch, không đi ngược. Hình thê long nên đoan trang nho nhã tú lệ.

Nhưng nếu mất khí của long mạch, đại bất cát. Nếu chủ khách không rõ ràng, mạch chính mạch nhánh không phân biệt, núi mọc lung tung, đá núi lộn xộn, hình thù quái dị là ác hình. Nơi như thế mà đăt địa mộ hung táng.

IV. Long mạch ảnh hưởng như thế nào?

Theo lý giải của các nhà phong thủy, sở dĩ gần đây trên thế giới thường xảy ra những trận bão, lũ lụt khủng khiếp gây tổn thất về người và của là do con người ta tàn phá rừng bừa bãi, cày xới, đào bới vô tội vạ để khai thác vàng, đá quý đã làm tổn thương đến long mạch.


Thậm chí, người ta còn cho rằng, ngay cả các cây trồng mang hình dáng rồng đều có ý nghĩa phong thủy, không nên chặt đốn.

Trở lại việc xem xét thế núi để chọn đất làm nhà, phong thủy cho rằng nếu một ngọn đồi có hình tam giác và giống như cái vỏ sò, bạn hãy mua lô đất trên bắp thịt con sò. Đây là thế đất tốt, giữ được khí và tiền bạc, nếu làm nhà ở vị trí này sẽ thuận lợi cho sức khỏe và công việc làm ăn.

Xét một cách đơn giản trong thực tế thì vị trí này cũng là thuận lợi hơn cả. Làm nhà ở đây sẽ tránh được lũ lụt trong mùa mưa, lại không quá cao như trên đỉnh đồi nên đi lại dễ dàng hơn. Mặt khác, vừa tựa lưng được vào sườn đồi, cửa lại hướng ra phía trước đủ được không gian thoáng đãng.

Tuy nhiên, trong thực tế không phải lúc nào ta cũng có thể chọn được một cuộc đất ưng ý trong một môi trường lý tưởng mà thường thì còn những khiếm khuyết nào đó. Khi ấy, phong thủy còn chỉ cho bạn biện pháp cải tạo để có một môi trường tốt hơn. Chẳng hạn khi một ngọn đồi cò dạng mình rồng nhưng lại không có đầu, người ta có thể xây nhà ở vị trí cổ rồng để tạo thêm đầu rồng, như vậy sẽ hình thành long tượng đầy đủ, đem lại sự hài hòa mang tính tổng thể cho khu vực và đặc khí cho cả đất và người cư ngụ. Như vậy, căn nhà được đặt đúng chỗ và kiểm soát được cả khu vực.


Chú ý : Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, cung cấp nội dung mang tính phổ biến kiến thức khoa học phong thủy cho bạn đọc.


Ngoài ra bạn đọc tham khảo kho sách miễn phí về Phong Thủy, Lịch Sử, Binh Pháp, Kinh Dịch, Phong Tục, Tâm Linh, Sách cũ xưa quý hiếm


0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

Nhà Đất Khu Vực Khác

An Bình (23) An Hoà (24) An Phước (20) An Viễn (24) Aqua (9) Bà Rịa - Vũng Tàu (11) Biên Hoà Newcity (9) Bình Dương (4) Bình Minh (8) Bình Phước (1) Bình Thuận (9) Bùi Hữu Nghĩa (1) Bùi Văn Hoà (1) Bửu Hoà (1) Bửu Long (18) Cách Mạng Tháng 8 (1) Cẩm Mỹ (23) Chung cư (16) D2D Thống Nhất Biên Hoà (21) Dak lak (1) Định Quán (6) Đồng Khởi (5) Đường Phùng Hưng (6) Giang Điền (3) Hiệp Hoà (6) Hoá An (3) Hưng Thịnh-Trảng Bom (13) Izumi (1) KDC (Phú An) Biên Hoà Gondenl Tow (3) KDC An Thuận (Victoria) (4) KDC Phước Thái (Tam Phước) (5) Khánh Hoà (1) Kinh nghiệm nhà đất (43) Lâm Đồng (1) Liên Hệ-Ký/Gửi (1) Long Bình (9) Long Bình Tân (39) Long Đức (9) Long Hưng (17) Long Khánh (20) Long Thành (26) Lộc An Long Thành (4) Nguyễn Ái Quốc (2) Nhà Đất Cho Thuê (18) Nhà Phố Sunshine Residence Biên Hoà (1) Nhơn Trạch (3) Phạm Văn Thuận (6) Phong Thủy (6) Phú Thịnh (Long Bình Tân) (8) Phước Bình Long Thành (2) Phước Tân (42) Quốc lộ 1A (12) Quốc Lộ 51 (20) Sông Trầu - Trảng Bom (8) Tam Hiệp (4) Tam Hoà (4) Tam Phước (47) Tân Hạnh (2) Tân Hiệp (16) Tân Hoà (2) Tân Mai (8) Tân Phong (14) Tân Phú (2) Tân Tiến (2) Tây Nguyên (1) The Viva Giang Điền (2) Thung Lũng Xanh (KDC AN PHƯỚC) (6) Tp. HCM (22) Trảng Bom (52) Trảng Dài (23) Trung Dũng (6) Vĩnh Cửu (43) Võ Thị Sáu (3) Xuân Lộc (39)